Tưởng nhớ đến anh linh 75 chiến sĩ Hải Quân QLVNCH đã hy sinh tại Hoàng Sa ngày 19/01/1974.
Sở Phòng Vệ Duyên Hải
Về
phương diện chỉ huy, chính phủ Hoa Kỳ (Hoa Thịnh Đốn) hoàn toàn đảm
nhiệm phần kiểm soát và thiết kế hành quân, MACSOC và Nha Kỹ Thuật tại
Việt Nam đảm nhiệm việc thi hành. Cả MAGSOC lẫn Nha Kỹ Thuật đều hầu như
không có tiếng nói hay ảnh hưởng nào về mặt đề nghị, cho phép và sắp
đặt thời khóa biểu cho các cuộc hành quân.
Về
phương diện tổ chức, phía Hoa Kỳ, dưới MACSOG có Phái Bộ Cố Vấn Hải
Quân (Naval Advisory Detachment - NAD) hay còn được gọi là Toán Hành
Quân Đường Biển (Maritime Operation Group - MAROP) chuyên lo về các cuộc
hành quân biệt hải có nhiệm vụ thả biệt kích, bắn phá các tầu bè, cơ sở
quân sự cũng như mở các cuộc hành quân thăm dò dọc duyên hải Miền Bắc.
Về phía Việt Nam, trực thuộc Nha Kỹ Thuật có Sở Phòng Vệ Duyên Hải
(Coastal Security Service - CSS) làm việc hàng ngang với NAD. Hai cơ
quan này thường được gọi chung là NAD/CSS đều đặt trụ sở tại tòa nhà
Bạch Tượng (White Elephant) Đà Nẵng đễ dễ bề phối hợp các hoạt động. Các
giới chức chỉ huy của SPVZH phối hợp khá chặt chẽ với NAD trong việc
điều động nhân viên công tác, thuyết trình trước và sau mỗi cuộc hành
quân v.v... Ngoài cơ quan NAD, SPVZH cũng làm việc rất chặt chẽ với toán
huấn luyện và yểm trợ MST.
Trước
đây, khi toán xâm nhập đường biển còn hoạt động dưới quyền điều động
trực tiếp của CIA, tuy có một số nhỏ người nhái HQVN, nhưng nhân viên
của những ghe Nautilus đều là dân sự. Khi kế hoạch Switchback chuyển
giao quyền kiểm soát các cuộc hành quân đặc biệt từ CIA sang quân đội
Hoa Kỳ, ghe Nautilus dần dần được thay thế bằng những chiến đĩnh tối tân
hơn, LLHT cũng được thành lập gồm những sĩ quan và đoàn viên thuộc Hải
Quân VNCH đặc biệt tuyển chọn để làm thủy thủ đoàn. LLHT đặt dưới quyền
điều động của Sở Phòng Vệ Duyên Hải (SPVZH) trực thuộc Nha Kỹ Thuật.
Đa
số nhân viên SPVZH là quân nhân, trong số này phần lớn là Hải Quân, đôi
khi có một số rất nhỏ thuộc Bộ Binh. SPVZH làm việc ngang hàng với cơ
quan NAD của Hoa Kỳ trong việc chỉ định các toán công tác, huấn luyện và
bảo trì chiến đĩnh. Về mặt hành chánh, các quân nhân Hải Quân thuộc
SPVZH được coi như biệt phái từ Hải Quân. Chỉ Huy Trưởng SPVZH là một sĩ
quan cao cấp Hải Quân. Các vị Chỉ Huy Trưởng SPVZH đều là những sĩ quan
thâm niên, nhiều kinh nghiệm; sau này có tới bốn cựu Chỉ Huy Trưởng
được thăng đến cấp Phó Đề Đốc.
Ngoài
một số cơ cấu hành chánh, SPVZH có hai đơn vị trực thuộc chính, đó là
Lực Lượng Hải Tuần (LLHT) và Lực Lượng Biệt Hải, đôi khi còn gọi tắt là
Biệt Hải.
1. Lực Lượng Hải Tuần
LLHT
là cơ cấu đông nhân viên nhất, có thể coi là thành phần nồng cốt của
SPVZH, nên đôi khi có một số người, kể cả những người trong Hải Quân chỉ
biết đến LLHT, ít khi nghe nói tới SPVZH. Thực sự, LLHT chỉ là một đơn
vị trực thuộc SPVZH cũng như Biệt Hải. Để hiểu rõ thêm, cần thấu triệt
về nhiệm vụ, doanh trại, nhân viên, trang bị và những hoạt động của
LLHT.
A . Nhiệm Vụ
Nhiệm
vụ chính của LLHT là thi hành những công tác hành quân đặc biệt bằng
đường biển trong vùng lãnh hải Bắc Việt từ vĩ tuyến 17 Bắc trở lên. Về
phương diện này, có thể coi LLHT tương tự như Phi Đoàn 219 của KQVN
chuyên thả các toán xâm nhập bằng trực thăng. Nhưng ngoài nhiệm vụ thả
và vớt các toán Biệt Hải tại vùng duyên hải Bắc Việt, các chiến đĩnh
thuộc LLHT còn thực hiện nhiều công tác riêng biệt khác như pháo kích,
chận bắt tầu bè, chiến tranh tâm lý v.v... sẽ đề cập tới ở phần sau.
B. Doanh Trại
Doanh
trại LLHT nằm ngay dưới chân núi Khỉ (Monkey Mountain) thuộc bán đảo
Sơn Chà, Đà Nẵng, cạnh khu quân cảng Deep Water Pier, nơi các tầu chở
hàng lớn của Hoa Kỳ như SEALAND cập để bốc rỡ hàng hoặc các tầu đổ bộ
thuộc Hải Quân Hoa Kỳ ủi bãi. Doanh trại này cách Bộ Tư Lệnh Hải Quân
Vùng I Duyên Hải không xa. Từ Đà Nẵng đi vào, phải đi qua trạm kiểm soát
tại Cầu Trắng, thấy bãi ủi Deep Water Pier ở bên trái rồi tới trại LLHT
ở bên phải. Xa hơn nữa là các cơ sở thuộc BTL/HQ/V1DH.
Trại
gồm hai dãy nhà một tầng, mái lợp fibro-xi măng nằm song song, dãy nhà
trên cao gần chân núi dành cho sĩ quan và dãy nhà phía dưới gần đường lộ
dành cho thủy thủ đoàn. Khu nhà sĩ quan được chia ra thành nhiều phòng
nhỏ, mỗi phòng dành cho 2 sĩ quan. Cứ hai phòng có chung một nhà tắm.
Khu đoàn viên gồm những nhà dài, không chia thành phòng. Thủy thủ đoàn
của mỗi chiến đĩnh chiếm một nhà làm phòng ngủ.
Trong doanh trại, ngoài các phòng ngủ, còn có các cơ sở khác như câu lạc bộ, nhà kho v.v...
Cầu
tầu PTF và các công xưởng sửa chữa cũng như bảo trì của MST nằm gần
Deep Water Pier, đối diện với khu doanh trại qua con đường nhỏ.
C. Trang Bị
Kể
từ khi Toán Xâm Nhập Đường Biển mới thành hình vào năm 1956 cho tới lúc
SPVZH chính thức thành lập vào đầu năm 1964, các phương tiện chuyên chở
thay đổi tùy theo thời gian và nhu cầu công tác. Mới đầu, toán xâm nhập
dùng ghe loại đánh cá, sau đó đến các loại tầu bè tối tân hơn như duyên
tốc đĩnh PCF và cuối cùng là loại khinh tốc đĩnh PTF.
- Ghe Nautilus
Như
chúng ta đã biết, thoạt đầu khi Lực Lượng Xâm Nhập Đường Biển được
thành lập và do CIA chỉ huy, phương tiện hoạt động duy nhất là các ghe
Nautilus. Đây là các ghe gỗ khá lớn dài chừng 30 thước, có mui, trông
giống những ghe đánh đánh cá xa bờ ở vịnh Bắc Việt. Ghe chạy bằng buồm
nhưng có gắn máy có vận tốc dưới 10 gút (hải lý/giờ). Võ khí trang bị
gồm có đại liên giấu trong khoang ghe và vũ khí cá nhân của thủy thủ
đoàn.
Cho
tới giữa năm 1963, tại Đà Nẵng có 7 ghe đặt tên Nautilus 1 tới 7 chuyên
dùng để xâm nhập hải phận miền Bắc. Lúc đó thành phần này đặt dưới
quyền chỉ huy của Đại Úy Ngô Thế Linh, trực thuộc LLĐB của Đại Tá Lê
Quang Tung. Thủy thủ đoàn của những chiếc ghe Nautilus phần đông là dân
sự gốc Nghệ An, Hà Tĩnh di cư hay sắc tộc Nùng sinh trưởng tại miền Bắc.
Một số sĩ quan Hoa Kỳ và Việt Nam huấn luyện thủy thủ đoàn và các toán
đổ bộ. Thủy thủ đoàn của mỗi ghe được thay đổi và bổ xung tùy theo nhu
cầu công tác.
Vào
các năm 1962-63, những ghe Nautilus xâm nhập miền Bắc nhiều lần để tiếp
tế, đổ biệt kích và phá hoại thành công vì có thể dễ dàng trà trộn với
ghe ngư phủ địa phương, dù vận tốc ghe này rất chậm, phải mất khoảng 24
giờ mới từ căn cứ xuất phát Đà Nẵng tới được mục tiêu Quảng Khê nằm dưới
vĩ tuyến 18 Bắc. Sau này, vì bị phản bội cũng như địch biết được đường
giây xâm nhập nên ghe Nautilus không còn hữu dụng. Đặc biệt trong chuyến
công tác đánh phá căn cứ hải quân Quảng Khê của VC tại cửa sông Gianh
vào ngày 28 tháng 6 năm 1962, vì hỏa lực yếu và vận tốc chậm nên ghe
Nautilus II bị tầu VC đuổi kịp và đánh chìm. Từ đó CIA thay thế các ghe
Nautilus bằng các duyên tốc đĩnh (PCF - Patrol Craft Fast) còn gọi là
"Swift" nhanh hơn và hỏa lực mạnh hơn.
- Duyên Tốc Đĩnh PCF (Swift)
Vì
các ghe Nautilus đã bị lỗi thời không còn thích hợp để xử dụng trong
các công tác xâm nhập miền Bắc nên vào giữa năm 1963, ba duyên tốc đĩnh
đĩnh mới loại PCF (Patrol Craft Fast) còn được gọi là Swift được dùng để
thay thế. Đây là loại duyên tốc đĩnh tương đối nhỏ, tầm hoạt động chỉ
lên đến Đồng Hới. Sau này, trong chương trình Việt Hóa chiến tranh,
HQVNCH được trang bị rất nhiều loại duyên tốc đĩnh này để thành lập
những Hải Đội Duyên Phòng.
Swift
là loại tuần duyên đĩnh mũi ngắn, sườn nhôm, dài chừng 50 bộ do hãng
đóng tầu Seward Seacraft ở Burwick, Louisiana chế tạo. Tầu trọng tải 19
tấn, tầm nước 3.5 bộ, gắn 2 máy diesel và có vận tốc tối đa chừng 28
gút. Vũ khí trang bị gồm có một đại liên 50 (12 ly7) gắn trên nóc phòng
lái; sân sau có một súng cối 81 ly trực xạ trên gắn đại liên 50. Thủy
thủ đoàn gồm có 5 người.
So
với loại ghe Nautilus, duyên tốc đĩnh Swift tuy nhanh và trang bị hỏa
lực khá mạnh nhưng tầm hoạt động tương đối ngắn, chỉ lên đến Đồng Hới.
Tuy vậy, Swift vẫn không phải là đối thủ của các tầu tuần duyên loại P-4
có vận tốc nhanh hơn và Swatow trang bị đại bác 37 ly của Bắc Việt. Do
đó, vì nhu cầu công tác đòi hỏi, vào khoảng đầu năm 1964, SPVZH được
trang bị các chiến đĩnh loại Khinh Tốc Đĩnh (PTF - Patrol Torpedo Fast)
lớn hơn, tầm hoạt động xa hơn, có vận tốc cao và hỏa lực mạnh hơn. Việc
xử dụng PTF và người nhái tại Việt Nam đã được Khối Hành Quân Đặc Biệt
của Hoa Kỳ chính thức đề nghị trong văn kiện đề ngày 27 tháng 9 năm
1962.
- Khinh Tốc Đĩnh PTF
Tổng
cộng có ba loại PTF được dùng ở Việt Nam: PTF cũ thời đệ nhị thế chiến,
PTF loại "Nasty" do Na Uy chế tạo và PTF loại "Osprey" do Hoa Kỳ đóng.
Điểm đặc biệt là tất cả các ống phóng ngư lôi đều được tháo gỡ vì đối
thủ Bắc Việt chỉ có các loại tầu nhỏ, không phải là mục tiêu của loại vũ
khí này. Súng ống trang bị trên các PTF cũng được biến cải để phù hợp
với nhiệm vụ trao phó.
Các
PTF được đặt dưới quyền điều động của MST, vào tháng 3/64 do Đại Úy
Burton Knight chỉ huy. MST trực thuộc MACSOG tại Sài Gòn. Về hệ thống
chỉ huy, trên MACSOG là SACSA (Special Assistant for Counterinsurgency
and Special Activities) thuộc Ngũ Giác Đài và Hội Đồng 303 (Committee
303) thuộc Hội Đồng An Ninh Quốc Gia (National Security Council - NSA).
Tuy nhiên, những nhân viên Hoa Kỳ ở Đà Nẵng thuộc Toán Yểm Trợ Hành Quân
Hải Quân (Naval Operation Support Group) đặt căn cứ tại Coronado,
California do Đại Tá Phil H. Bucklew chỉ huy. Toán này chịu trách nhiệm
về các hoạt động đặc biệt của Hải Quân Hoa Kỳ trong vùng Thái Bình Dương
cũng như quản trị nhân viên do Toán cung cấp cho SOG để xử dụng trong
các hoạt động tại Việt Nam..
+ PTF Loại Cũ
Hai
PTF đầu tiên được dự trù trang bị cho LLHT là loại cũ từ thời đệ nhị
thế chiến (giống PT 109 của TT Kennedy), dùng máy Packard chạy bằng xăng
máy bay nên còn được gọi là "tầu xăng". Ngay từ lúc đầu, các giới chức
quen thuộc với công tác Biệt Hải tại Đà Nẵng cũng như Sài Gòn đã không
tán thành việc xử dụng loại PTF cũ này, nhưng Hoa Thịnh Đốn ra lệnh cứ
dùng thử. Do đó, vào khoảng tháng giêng năm 1963, Hải Quân Hoa Kỳ tân
trang 2 chiến đĩnh là các PT-810 và PT-811 đang tồn trữ tại Hải Quân
Công Xưởng Philadelphia.
Đây
là kiểu Ngư Lôi Đĩnh dùng trong đệ nhị thế chiến nhưng được đóng vào
năm 1950. Vũ khí trang bị nguyên thủy gồm ống phóng ngư lôi, 2 đại bác
40 ly một ở trước mũi và một ở sân sau, 2 đại bác 20 ly, 2 đại liên 50
bên hông. Khi sang Việt Nam, khẩu đại bác 40 ly trước mũi được cắt bỏ và
thay bằng khẩu súng cối 81 ly trực xạ gắn thêm đại liên 50. Hai PT này
được đổi tên là PTF-1 và PTF-2. Sau khi chạy thử, cả 2 chiếc PTF gặp khá
nhiều trở ngại kỹ thuật nên được giữ lại tại công xưởng Philadelphia để
sửa chữa. Vào khoảng thời gian này, Hải Quân Hoa Kỳ cũng vừa nhận được 2
chiếc PTF mới loại "Nasty" đặt mua từ Na Uy, đặt tên là PTF-3 và PTF-4.
Ngày
19 tháng giêng năm 1964, các PTF-1và PTF-2 được chiến hạm Pioneer Myth
chở từ Norfolk đến Subic Bay vào đầu tháng 2 và đến Việt Nam khoảng
tháng 3 năm 1964. Lúc này, các PTF-3 và PTF-4 loại "Nasty" cũng đã tới
Việt Nam từ trước, vào khoảng cuối tháng 2/64. Các PTF-1 và PTF-2 được
chạy thử tại Đà Nẵng và nhận thấy rằng không được an toàn và hữu hiệu vì
nhiều lý do. Thứ nhất, tầu chạy bằng xăng nên có thể phát nổ dễ dàng
nếu bị trúng đạn trong lúc công tác. Thứ hai máy nổ rất ồn ào, gây nhiều
tiếng động nên không thích hợp cho việc thả và vớt toán vì dễ bị lộ.
Thứ ba, máy rất khó tái khởi động sau khi tắt vì hơi bị kẹt trong lòng
máy. Điều này rất nguy hiểm vì sau khi thả toán, chiến đĩnh có thể phải
tắt máy để tránh gây tiếng động, nhưng vẫn có thể cần khởi động ngay
trong trường hợp khẩn cấp. Thứ tư, máy rất khó vào số lùi. Tuy có khuyết
điểm nhưng tầu xăng có hỏa lực mạnh và vận tốc tương đối cao nên rất
hữu hiệu trong các công tác pháo kích hay yểm trợ hải pháo.
Ngoài
các vấn đề an toàn nêu trên, vì các PTF này thuộc loại cũ không dùng đã
lâu nên khó kiếm cơ phận. Hơn nữa, việc dùng chiến đĩnh chế tạo tại Hoa
Kỳ cũng là một trở ngại vì theo qui luật, các phương tiện và võ khí xử
dụng trong các cuộc hành quân biệt kích đều không được mang xuất xứ từ
Hoa Kỳ để tránh các rắc rối về ngoại giao.
Các
PTF loại cũ này tham dự một số công tác đáng kể, nhưng sau này, trong
những hoạt động vào ngày 30 tháng 7 và 3 tháng 8 năm 1964, cả 2 PTF-1 và
PTF-2 đều bị trở ngại về máy móc nên sau đó được thay thế bằng các PTF
tối tân hơn do Na Uy chế tạo.
Tổng cộng chỉ có 2 PTF loại cũ được xử dụng trong LLHT. Một trong hai hạm trưởng của loại "tầu xăng" này kể lại như sau:
"Máy
chạy để ở vị thế ngừng (idle) không được đều, tiếng máy "gầm gừ" nghe
rất lạ. Sự khởi động của máy rất khó khăn. Khi khởi động máy thường phát
ra tiếng nổ rất lớn và thổi ra một cục lửa lớn bằng trái banh xa chừng
một thước rưỡi. Chân vịt của tầu rất lớn nên quạt nước thật mạnh, mỗi
khi tầu cập cầu hay rời bến đều làm cho vịnh nổi sóng. Tầu chỉ chạy tốt
với tốc độ cao, chạy chậm dễ bị chết máy. Do đó cơ khí viên rất mệt,
phải luôn luôn trông chừng cho máy khỏi bị tắt. Khi máy bị tắt thì khởi
động rất khó, đôi khi hết cả bình gió ép! Vận tốc của tầu rất cao, khi
đi (lúc tầu nặng vì còn nhiều dầu) có thể tới 35-40 gút, khi về thì
40-45 gút. Chẳng chiếc tầu nào giám cập cạnh hoặc đối diện với tụi tôi.
Chúng tôi cũng không bao giờ cập cạnh nhau. Hạm trưởng các tầu khác
thường gọi chúng tôi là 2 thằng thủy quái.
Tầu
được trang bị 1 đại bác 40 ly, 2 đại bác 20 ly, 2 đại liên 50 và một
súng cối 81 ly gắn thêm đại liên 50. Công tác của tụi tôi là chỉ có bắn
phá chứ không thả hay vớt người, thành ra rất nhàn hạ và luôn luôn thành
công. Công tác của những tầu khác là thả người và vớt người nên đôi khi
sai hẹn hay trở ngại vớt không được, nhiều khi đi không lại về không,
có khi phải chờ dài cả cổ mới gặp được".
+ PTF Na Uy (Nasty)
Vì
các khuyết điểm khó khắc phục nói trên của loại tầu xăng nên khoảng
cuối năm 1965, LLHT được trang bị những khinh tốc đĩnh loại "Nasty" tối
tân nhất thế giới vào thời bấy giờ do Hải Quân Na Uy và Tây Đức cùng
nghiên cứu và chế tạo.
Khinh
tốc đĩnh Nasty do kiến trúc sư Jan H. Lingen của Na Uy vẽ kiểu sau khi
tham khảo ý kiến với các sĩ quan thuộc hải quân Hoàng Gia Na Uy và tổng
hợp những ưu điểm của các loại ngư lôi đĩnh PT của Hoa Kỳ và Fairmile
"D" của Anh. Loại tầu tuần tiễu duyên hải này có thể mang theo thủy thủ
đoàn 19 người. Chiếc Nasty đầu tiên được chế tạo cho hải quân Na Uy mang
tên KNM TJELT (P-343). Tổng cộng, Na Uy chỉ đóng 42 chiếc Nasty, gồm 20
cho Na Uy, 6 cho Hy Lạp, 2 cho Thổ Nhĩ Kỳ và 14 cho Hoa Kỳ dùng tại
Việt Nam.
Hai
chiếc Nasty đầu tiên được giao cho Hải Quân Hoa Kỳ vào đầu năm 1963 tại
Little Creek, Virginia, sau khi chạy thử, được đặt tên là PTF-3 và
PTF-4 vào ngày 3 tháng 5 năm 1963, rồi được đưa đi huấn luyện tại San
Diego. Ngày 17 tháng 9, hai chiến đĩnh được chiến hạm Point Defiance
(Landing Ship Dock - LSĐ 31) chở đến Pearl Harbor, Hawaii rồi tới Subic
Bay một tháng sau đó. Tại Subic, các PTF-3 và PTF-4 được biến cải để gắn
thêm thùng đựng nhiên liệu để nâng cao tầm hoạt động, bằng cách gỡ bỏ
pháo tháp 40 trước mũi, thay vào đó bằng ụ súng 81 ly trực xạ gắn thêm
đại liên 50. Ngày 22 tháng 2 năm 1964, cả hai PTF được đưa lên chiến hạm
Carter Hall để chở qua Việt Nam. Nhưng trong lúc đưa lên chiến hạm
chuyên chở, PTF-3 bị sóng đập vào thành tầu lớn khiến vỏ bị bể, vì vậy
được để lại Subic Bay để sửa chữa. Mãi đến cuối tháng 2/64, PTF-3 mới
đến Đà Nẵng.
Trong
thời gian đó, vào ngày 1 tháng 2 năm 1964, Na Uy lại giao thêm 4 chiếc
Nasty mới là các PTF 5, 6, 7 và 8 tại hải cảng Bergen, Na Uy. Các tầu
này được đưa lên chiến hạm Point Barrow (AKD-1) chở tới Subic Bay vào
ngày 3 tháng 3. Sau khi được biến cải và tân trang, các Nasty này được
đưa đến Việt Nam vài tháng sau đó.
Khinh
tốc đĩnh Nasty có vỏ bằng ván ép nhiều lớp đặc biệt, trọng tải 75 tấn,
dài khoảng 80 bộ, rộng 24.7 bộ, tầm nước 3.7 bộ phía trước, 6.10 bộ chỗ
chân vịt sau lái, có thể mang 18 tấn hay 6,100 gallons dầu cặn, tầm hoạt
động lên đến 1,000 hải lý với tốc độ tiết kiệm. Máy tầu loại Napier
& Deltic của Anh, 18 xy lanh, vận tốc đường trường khoảng 35 gút,
vận tốc tác chiến tối đa có thể lên đến 50 gút khi tầu không mang nhiều
nhiên liệu..
Về
vũ khí, Nasty được trang bị 1 súng cối 81 ly trực xạ gắn thêm đại liên
50 trước mũi. Sân sau lái đặt khẩu đại bác 40 ly, hai bên hông ngang đài
chỉ huy gắn đại bác 20 ly. Dụng cụ hải hành gồm la bàn điện, máy dò
chiều sâu và radar loại Decca có tầm hữu dụng 50 hải lý với màn ảnh
chính đặt trong trung tâm chiến báo và "repeater" trên đài chỉ huy.
Radar này thường được dùng để hải hành hay hải thám, nhưng khi cần, ăng
ten có thể ngóc lên 15 độ để phòng không. Tuy radar thuộc loại tối tân
thời bấy giờ, nhưng các mạch điện còn dùng đèn điện tử nên khi biển
động, tàu nhảy sóng và bị đập mạnh xuống mắt nước, các đèn dễ bị lỏng
hoặc cháy. Máy truyền tin gồm các loại âm thoại cũng như tín hiệu.
Đặc
điểm của loại Nasty là vận chuyển nhẹ nhàng, cần điều khiển máy nằm
ngay trên đài chỉ huy nên hạm trưởng có thể tự mình tăng hay giảm máy dễ
dàng không phải "truyền lệnh" trong lúc tác chiến hay trường hợp khẩn
cấp. Đài chỉ huy lộ thiên, không có chỗ ngồi và tương đối thấp để đỡ cản
gió. Khi hải hành với vận tốc cao, khoảng phân nửa thân tầu về phía
trước mũi hỏng lên khỏi mặt nước, nếu gặp sóng ngược, phần lớn thân tầu
bị dở lên khỏi mặt nước rồi đập xuống như phi ngựa, những đứng người
trên đài chỉ huy đều phải "thủ thế" để giảm bớt sức dội và đỡ bị sóng
biển tạt ướt. Tuy vậy, vỏ ván ép của Nasty có sức chịu đựng rất bền bỉ,
không bị bể hay nứt. Với các đặc tính này, khinh tốc đĩnh Nasty rất được
các hạm trưởng ưa chuộng và trở thành xương sống của LLHT.
+ PTF Osprey
Khoảng
giữa năm 1968, để thay thế cho một số chiến đĩnh Nasty vào công xưởng
sửa chữa đại kỳ hay bị hư hại trong lúc tác chiến, LLHT nhận thêm một số
chiến đĩnh mới cũng thuộc loại PTF nhưng có tên là "Osprey" do Hoa Kỳ
chế tạo. Loại khinh tốc đĩnh này do hãng đóng tàu John Trumpy and Sons
of Annapolis, Maryland sản xuất, tổng cộng chỉ có 6 chiếc.
Các
chiến đĩnh Osprey được đóng mô phỏng theo loại Nasty của Na Uy, nhưng
vỏ bằng nhôm thay vì bằng gỗ. Đặc biệt, loại Osprey được trang bị máy
điều hòa không khí nên rất tiện nghi khi đi công tác. Nghe nói sườn và
phần sau lái tầu được nhập cảng "tiền chế" từ Na Uy. Khinh tốc đĩnh
Osprey tuy vỏ bằng nhôm nhưng vẫn hơi nặng hơn loại Nasty nên vận tốc
kém hơn khoảng 5 gút và mức độ nhảy sóng cũng kém hơn. Vũ khí trang bị
tương tự như Nasty. Tuy nhiên, vỏ nhôm của Osprey không chịu được vận
tốc cao khi hoạt động trong thời tiết xấu, tầu bị sóng nâng cao và đập
mạnh xuống mặt biển nên vỏ tàu bị nứt chỉ sau 6 tháng hoạt động. Vì lý
do này, có 4 chiến đĩnh được đưa qua Việt Nam để thử nghiệm, nhưng sau
đó lại đưa về Hoa Kỳ và trở thành các PTF 23, 24, 25 và 26 trong Hải
Quân.
D. Nhân Viên
Trước
khi đi sâu vào phần quan trọng và đặc biệt nhất của LLHT là lãnh vực
nhân sự, cần nhắc qua về nhân viên của toán xâm nhập đường biển trước
đây, có thể coi là tiền thân của LLHT và SPVZH.
Đối
với công luận Hoa Kỳ và thế giới tức là về mặt nổi, những cuộc hành
quân biệt kích nhắm vào miền Bắc đều do chính phủ Việt Nam Cộng Hòa tự
đứng ra tổ chức, do đó nhân viên tham dự đều là người Việt Nam. Tuy
nhiên, trên thực tế, có một số người Đài Loan và đệ tam quốc gia do CIA
tuyển mộ trong giai đoạn đầu. Cũng giống như CIA đã thuê mướn nhân viên
người Đài Loan lái những máy bay C-47 thả dù Biệt Kích ngoài Bắc, CIA
cũng mướn những người thuộc "quốc gia thứ ba" dự trù xử dụng trong những
cuộc hành quân Biệt Hải xuất phát từ Đà Nẵng.
Thoạt
kỳ thủy khi còn xử dụng ghe Nautilus, thủy thủ đoàn đều là nhân viên
dân chính Việt Nam, đa số gốc người Nghệ An, Hà Tĩnh hay gốc Nùng di cư
vào miền Nam. Các ghe Nautilus được ngụy trang trông rất giống các ghe
đánh cá ngoài Bắc để dễ trà trộn, bởi vậy thủy thủ đoàn cũng phải là
người Việt giống như ngư phủ địa phương. Toán đổ bộ phần lớn cũng là
người Việt. Tuy nhiên trong một vài công tác đổ bộ đầu tiên tại vùng
Móng Cái gần biên giới Việt - Hoa, có một số người nhái Trung Hoa Quốc
Gia tham dự, nhưng có lẽ họ chỉ nhân cơ hội để hoạt động trên lãnh thổ
Trung Cộng.
Về
sau, vì nhu cầu công tác, CIA thay thế các ghe Nautilus bằng ba duyên
tốc đĩnh PCF là loại tầu mới và tối tân nên các nhân viên dân sự Việt
Nam không đủ khả năng điều khiển. Vì vậy CIA đã mướn một số người thuộc
đệ tam quốc gia để làm thuyền trưởng. Theo các tài liệu Hoa Kỳ và trong
cuộc phỏng vấn gần đây của phóng viên Thụy Điển Sven Oste, thuyền trưởng
những chiếc Swift này đều là người quốc tịch Na Uy (ông Oste đã phỏng
vấn 2 trong số những người Na Uy từng làm thuyền trưởng Swift tại Việt
Nam). Ngoài thuyền trưởng người Na Uy, mỗi chiếc Swift thường có thêm 3
nhân viên dân chính Việt Nam: một tài công, một xạ thủ và một thông dịch
viên. Ba thuyền trưởng người Na Uy này thường được gọi đùa là "dân
Viking". Họ được tuyển mộ từ Na Uy vào tháng 7/63 và đi chuyến công tác
cuối cùng vào ngày 27/5/64, sau đó họ rời Việt Nam vào tháng 6/64 khi
mãn giao kèo. Nhận xét chung về người Na Uy, họ là những thuyền trưởng
tương đối có khả năng và chu toàn nhiệm vụ được trao phó.
Vào
tháng 6/64, sau khi những người Na Uy mãn giao kèo, một số người quốc
tịch Trung Hoa đuợc tuyển mộ để thay thế, nhưng khi việc huấn luyện hoàn
tất thì chiến đĩnh Swift không còn được dùng trong những công tác vượt
vĩ tuyến 17 Bắc nữa.
Về
toán đổ bộ, thoạt tiên có một số người thuộc quốc tịch thứ ba như Trung
Hoa Quốc Gia trong vài chuyến đầu gần biên giới Hoa - Việt, nhưng sau
đó, nhân viên đều là Biệt Hải, đa số thuộc Liên Đoàn Người Nhái HQVNCH.
Đối
với các chiến đĩnh PTF, lúc đầu CIA mướn những người Đức để huấn luyện
và dự tính dùng vào những chức vụ then chốt, còn người Nùng và Việt Nam
chỉ là phụ tá. Nhưng sau đó, những người Đức bị sa thải vì thường uống
rượu say sưa. Nhóm người Đức dựa vào giao kèo để phản đối, nhưng sau này
CIA trả cho họ một số tiền cho êm chuyện. Nhóm người Đức này không đi
một chuyến công tác nào trên PTF. Những chuyến công tác đầu tiên của PTF
vào tháng 7 và 8/64 đều do các sĩ quan HQVNCH chỉ huy. Toán đổ bộ dùng
PTF đại đa số là người Việt Nam với một số ít người thuộc sắc tộc thiểu
số Nùng.
Kể
từ khi SPVZH và LLHT được chính thức thành lập, thủy thủ đoàn của các
PTF và Swift đều là những quân nhân Hải Quân VNCH tình nguyện. Vì số
người tình nguyện bao giờ cũng cao hơn số được thâu nhận nên việc tuyển
lựa rất kỹ càng, căn cứ vào kinh nghiệm hải hành, tinh thần phục vụ, sức
khỏe và khả năng tác chiến. Việc điều tra an ninh cũng rất gay go với
mức độ "mật" hay "tối mật". Khi được tuyển chọn mỗi người phải ký một
giao kèo có hiệu lực trong vòng một năm. Sau đó, cứ mỗi 6 tháng khi giao
kèo hết hạn, nhân viên có quyền ký thêm 6 tháng nữa hoặc thuyên chuyển
về Hải Quân. Mỗi lần ký giao kèo, người tình nguyện, dù sĩ quan hay đoàn
viên, đều lãnh một số tiền bằng nhau. Ngoài ra, còn có tiền phụ cấp cho
mỗi chuyến công tác trên vĩ tuyến 17 và tiền phụ trội ẩm thực. Ngân
khoản này đều do chính phủ Hoa Kỳ cung cấp. Tiền lương Hải Quân vẫn được
lãnh hàng tháng như thường lệ.
Về việc tuyển mộ tình nguyện này, một sĩ quan từng phục vụ lâu năm trong LLHT kể lại như sau:
"...
Tưởng cuộc đời mình dính liền với Hạm Đội thì một hôm, HQ Trung Tá...
xuống gặp anh em chúng tôi, ngỏ ý tuyển mộ một số sĩ quan trẻ có khả
năng để phục vụ trên các khinh tốc đĩnh trong các nhiệm vụ đặc biệt. Với
máu ưa mạo hiểm sẵn có cũng như niềm ngưỡng mộ đối với hình ảnh hào
hùng của cố Tổng Thống Kennedy lúc ông còn là Hạm Trưởng PT 109 trong Đệ
Nhị Thế Chiến, chúng tôi chỉ cần có mấy ngày để rời bỏ Hạm Đội để bước
vào một thử thách mới. Khóa chúng tôi gồm có 6 người, cộng thêm 6 bạn
khóa 11 trở thành nhóm Sĩ Quan trẻ đầu tiên của LLHT".
Một
khi đã ký giao kèo gia nhập LLHT, người tình nguyện không còn thuộc hệ
thống chỉ huy của Hải Quân nữa, mà trở thành nhân viên của Lực Lượng Đặc
Biệt nên không cần mặc quân phục Hải Quân, ngoại trừ sáng thứ hai khi
làm lễ thượng kỳ hay khi có thượng cấp thăm viếng. Trong doanh trại, đa
số thường bận quân phục Bộ Binh. Khi đi công tác thường chỉ mặc bộ đồ bà
ba đen. Ngay cả lý lịch cũng thay đổi, mỗi người lấy một tên giả, còn
thư từ thì gửi về một hộp thư chung cho toàn lực lượng.
E. Vũ Khí Xử Dụng
Ngoài
những vũ khí trang bị trên chiến đĩnh, toán đổ bộ lúc đầu còn xử dụng
các hỏa tiễn thới chỉnh để bắn phá các mục tiêu, nhưng vì hỏa tiễn không
được chính xác nên sau này họ xử dụng súng 57 ly không giật để tăng
cường hỏa lực. Những ổ súng không giật di động này có thể thiết trí ở
bât cứ nơi nào trên chiến đĩnh vì không cần dùng chân súng. Các ổ súng
không giật thường được đặt ở sân trước ngay dưới chân khẩn súng cối 81
ly trên chiến đĩnh mỗi khi bắn phá mục tiêu trên bờ. Toán đổ bộ cũng
thực tập bắn súng 57 ly bằng cách mang trên vai để có thể xử dụng vũ khí
này trên xuồng cao su. Ngoài súng 57 ly, còn có các loại 90 ly hay 106
ly nhưng không được xử dụng thường xuyên. Nhiều loại mìn nổ chậm cũng
được Biệt Hải dùng trong công tác phá hoại. Về vũ khí cá nhân, các nhân
viên đổ bộ dùng loại súng AK của khối CS hay tiểu liên (K-gun) do Thụy
Điển chế tạo.
F. Tin Tức Tình Báo Và Không Ảnh
Trước
khi lên đường hành quân, các Hạm Trưởng và trưởng toán đổ bộ thường
được thuyết trình về tình hình địch cũng như xem không ảnh mới nhất của
vùng mục tiêu. Tin tức tình báo thường là cung từ của các tù binh hay
dân đánh cá bị tại địa phương bị bắt về để khai thác. Các không ảnh này
đa số do phi cơ "tối mật" U-2 chụp trên cao độ ngoài tầm hỏa tiễn phòng
không cũng như phi cơ của BV. Các phi cơ U-2 thường xuất phát từ phi
trường Biên Hòa, đôi khi từ căn cứ Clark Air Base bên Phi Luật Tân.
Tại
phi trường Biên Hòa thường có hai phi cơ U-2 túc trực. Không ảnh của
phi cơ U-2 là nguồn tình báo chính cho các cuộc hành quân OPLAN 34A.
Thông thường, vào ngày có công tác, một phi cơ U-2 bay từ sáng sớm để
chụp hình mục tiêu. Đến trưa, không ảnh đã có trong tay MACSOG tại Sài
Gòn. Đôi khi không ảnh cũng được chụp bằng các phi cơ không người lái
(drone) ở cao độ thấp hơn hoặc bằng cách chụp hình trên màn ảnh radar
(radarscope photography) trên các phi cơ bay đêm.
G. Tinh Thần Chiến Đấu
Dĩ
nhiên trong mỗi lần vượt vĩ tuyến 17 thi hành công tác, bao giờ cũng có
những nguy hiểm chờ sẵn, nhưng thật ra những lo âu, hồi hộp không phải
vì địch quân mà do cảm giác thiếu an toàn khi hoạt động trong vùng địch
kiểm soát. Trong những chuyến công tác đầu tiên, tuy vẫn hải hành ngoài
biển, nhưng một khi vượt qua lằn ranh tưởng tượng là vĩ tuyến 17 sang
hải phận địch, ai cũng cảm thấy tinh thần căng thẳng. Ngược lại khi trở
về vùng biển nhà, mọi người đều thở phào nhẹ nhõm.
Lâu
dần, đầu óc cũng quen đi, hơn nữa so với các tầu tuần duyên Bắc Việt,
các chiến đĩnh LLHT có hỏa lực mạnh hơn, vận tốc lại nhanh hơn nên lúc
nào cũng chiếm được thế thượng phong. Vì vậy, những cảm giác lo âu ban
đầu không còn nữa nhưng lúc nào cũng cần đề phòng cẩn mật và tập trung
tâm trí chỉ vào việc hoàn thành công tác. Đã từng phục vụ tại các giang
đoàn ở miền Nam, chúng tôi nhận thấy rằng những chuyến công tác vượt
tuyến còn ít nguy hiểm hơn nhiều. Các giang đĩnh hoạt động trong sông
lạch chật hẹp là mục tiêu bị động tốt cho địch quân ẩn núp hai bên bờ
nhắm bắn bất cứ lúc nào; ngược lại, các chiến đĩnh tối tân của LLHT
ngoài biển cả luôn luôn nắm vai trò chủ động.
Mỗi
chuyến công tác vượt tuyến là một cuộc phiêu lưu mạo hiểm rất hào hứng
và cũng là một thử thách. Ngoài ra, các chuyến công tác tương đối ngắn,
ít khi kéo dài quá 24 tiếng đồng hồ, không mấy nguy hiểm lại được đãi
ngộ xứng đáng nên tinh thần của nhân viên LLHT rất cao. Bằng cớ là có
rất nhiều người thuộc thủy thủ đoàn chưa tới phiên, nhưng vẫn tình
nguyện đi công tác thay thế cho những người vắng mặt ở thủy thủ đoàn
khác cho đủ cấp số. Lắm người tình nguyện này đi công tác nhiều gấp đôi,
gấp ba so với các bạn đồng đội thuộc thủy thủ đoàn chính của mình.
2. Lực Lượng Biệt Hải
Ngay
từ tháng 11 năm 1962, một căn cứ đã được thiết lập tại bãi biển Mỹ Khê
do CIA điều khiển để các ngưới nhái Hoa Kỳ (SEAL - Sea Air Land) huấn
luyện các toán đổ bộ. Tuy căn cứ này do CIA chịu trách nhiệm cho tới năm
1964, nhưng việc huấn luyện hoàn toàn do SEAL đảm trách.
Bãi
biển Mỹ Khê nằm về hướng đông của bán đảo Tiên Sha, từ chân núi Khỉ
(hay núi Sơn Chà) chạy dài về hướng Nam tới Ngũ Hành Sơn (Marble
Mountain). Bán đảo Tiên Sha thuộc khu phía đông của thành phố Đà Nẵng.
Tất cả các căn cứ của toán Biệt Hải đều nằm dọc theo bãi biển Mỹ Khê.
Các toán Biệt Hải sống và huấn luyện trong những trại riêng biệt, tương
đối nhỏ chỉ đủ cho vài ba chục người. Có trại dành riêng cho toán Biệt
Hải gốc Bộ Binh (Romulus?), có trại dành cho Biệt Hải gốc người nhái Hải
Quân (Vega), có trại dành riêng cho toán xử dụng chất nổ dưới nước.
Ngoài ra, còn có trại riêng cho những người Nùng chuyên việc canh phòng
các doanh trại.
Vào
khoảng năm 1964, toán người nhái Hải Quân Hoa Kỳ đảm trách việc huấn
luyện các toán Biệt Hải, dưới quyền chỉ huy của Đại Úy Cathal L. Flynn.
Các toán Biệt Hải được huấn luyện về kỹ thuật chèo xuồng cao su, đổ bộ,
bơi ngầm dưới biển, xử dụng chất nổ v.v... Về vũ khí, đầu tiên họ được
huấn luyện cách xử dụng hỏa tiễn loại 3.5 inch thời chỉnh (time- delay)
do CIA cung cấp. Trên nguyên tắc, một toán có thể đổ bộ gần mục tiêu rồi
đặt giàn phóng hỏa tiễn, điều chỉnh thời gian khai hỏa rồi rút về căn
cứ trước khi hỏa tiễn khai hỏa. Tuy nhiên, loại hỏa tiễn này không được
hiệu quả vì kém chính xác, hệ thống thời chỉnh hay bị sai và nhất là
nguy hiểm vì hay phát nổ bất tử. Những hỏa tiễn này đã được dùng vài lần
trong các cuộc đổ bộ ngoài Bắc nhưng sau bị loại bỏ vì không có hiệu
quả và sau này được thay thế bằng súng 57 ly không giật. Đây là loại
súng đại bác hạng nhẹ với hơi nổ được đẩy ra phía sau thay vì theo nòng
súng tống ra phía trước nên "không giật" do đó không cần chân hay đế
súng để triệt tiêu sức giật.
Vào
tháng 3 năm 1964, Hải Quân Đại Úy Trịnh Hòa Hiệp thuộc Liên Đoàn Người
Nhái HQVNCH được thuyên chuyển ra làm Chỉ Huy Trưởng toán LĐNN tại Mỹ
Khê. Đây là toán hoạt động hữu hiệu và đạt được nhiều thành quả nhất.
Nguồn từ tài liệu của NKT/ B.TTM/ QLVNCH
Bảy Hiền cựu nhân viên Sở PVDH
Jan 11 at 11:53 PM
Tưởng nhớ đến 75 chiến sĩ Hải Quân QLVNCH hy sinh tại Hoàng Sa ngày 19/01/1974 bởi bọn Tàu cộng xâm lược.
Bảy Hiền Sở PVDH
Phạm Phong Dinh
Phạm Phong Dinh
Sau
khi hay tin 15 Biệt Hải thuộc Tuần Dương Hạm HQ 16 Lý Thường Kiệt được
một ngư thuyền cứu vớt tại eo biển Qui Nhơn, cách đảo Cù Lao Xanh (hay
còn gọi là Mũi Yến) 55 cây số về phía Đông và vẫn còn ở ngoài hải phận
quốc tế, nhiều phóng viên quân đội đã chạy đôn chạy đáo tìm mọi cách để
đến gặp và nhìn tận mắt những người lính biển đầu tiên đã viết những
dòng hải sử chiến đấu chống quân Trung cộng, kẻ thù truyền kiếp của dân
tộc Việt Nam. Chỉ với 15 người lính, các anh đã phải đối đầu với một lực
lượng hung hãn địch gấp gần 20 lần hơn trên đảo Vĩnh Lạc. Trong lúc
những chiến hạm của Hải Quân Việt Nam còn đang giáp chiến với hải quân
Trung cộng, tiếng đại bác của hai bên nổ rền mặt đại dương, thì 15 chiến
sĩ Biệt Hải đã kiệt liệt đối súng với hàng trăm lính bộ chiến của Trung
cộng trên hòn đảo nhỏ này. Giữa cơn lửa đạn mù rời, toán Biệt Hải nhận
được lệnh rút bỏ Vĩnh Lạc, vì cấp chỉ huy mặt trận Hoàng Sa không thể hy
sinh oan uổng những đoàn viên ưu tú nhất của quân chủng. Không có một
chiếc tàu nào đến đón, vì lúc đó 14 tàu chiến Trung cộng đang vây đánh
Tuần Dương Hạm HQ 16 Lý Thường Kiệt, Tuần Dương Hạm HQ 5 Trần Bình
Trọng, Hộ Tống Hạm Nhật Tảo HQ 10 và Khu Trục Hạm Trần Khánh Dư HQ 4.
Chiếc xuồng đổ bộ giờ đây đã trở thành chiếc phao cứu sinh duy nhất của
toán chiến sĩ lạc loài này. Cuộc hành trình vượt chết trên vùng biển bão
tố bắt đầu.
Một
toán thám sát Biệt Hải được chiếc HQ 16 Lý Thường Kiệt thả xuống gần
đảo Vĩnh Lạc, rồi các anh dùng thuyền nhỏ chèo vào và đổ bộ lên bờ biển.
Đảo Vĩnh Lạc (còn gọi là đảo Quang Ảnh hay Money) thuộc chủ quyền Việt
Nam từ thời triều đình nhà Nguyễn, nhưng đã bị hải quân Đài Loan lợi
dụng lúc ra giải giới quân Nhật khi Nhật đầu hàng quân Đồng Minh ngày
21.8.1945, đã ngang ngược chiếm lấy và tuyên bố chủ quyền từ năm 1946.
Đến lượt Trung cộng đoạt lấy đảo Vĩnh Lạc cuối năm 1949, sau khi đánh
bại quân Quốc Dân Đảng Trung Hoa ở lục địa. Đảo Vĩnh Lạc, cũng như hầu
hết các đảo thuộc quần đảo Hoàng Sa (còn gọi là Paracel) có cấu tạo san
hô rất kiên cố, nên địa thế rất khó khăn cho tàu bè cặp bến. Đây là đảo
có nhiều cây cối và là nơi chim biển đến sinh sống nhiều nhất. Số phân
phosphate từ phân chim ước lượng phải gần 1,200,000 tấn. Đó là một trong
những lý do tại sao thu hút lòng tham lam bất chính của cả Đài Loan và
Trung cộng.
Trung
Úy Lâm Trí Liêm, Trưởng Toán Biệt Hải, khi anh dẫn 15 chiến sĩ đổ bộ
lên Vĩnh Lạc, đã khám phá bốn ngôi mộ với bốn cái bia đá do Trung cộng
dựng nên để xác nhận chủ quyền của chúng. Những ngôi mộ chẳng biết có bộ
xương nào ở dưới hay không, nhưng những tấm bia chỉ là biểu trưng của
sự giả trá quỉ quái của bọn cộng sản, với dụng ý chứng tỏ đã có dấu chân
của chúng từ lâu. Trung Úy Liêm ra lệnh cho đoàn viên Biệt Hải nhổ
những tấm bia đá này chuyển xuống HQ 16 để chuyên viên của ta dịch sang
Việt ngữ xem chúng khắc cái quái gì trên đó, rồi đem về Sài Gòn. Ngoài
nhiệm vụ phá hủy những di chứng giả tạo của Trung cộng, Toán Biệt Hải
còn có công tác cắm cờ Việt Nam và bảo vệ cờ để xác nhận chủ quyền của
Việt Nam Cộng Hòa.
Khi
Trung Úy Liêm cùng chiến sĩ Biệt Hải của anh đặt chân lên đảo Vĩnh Lạc,
hòn đảo hoàn toàn hoang vắng không một bóng người, chỉ có mỗi bốn nấm
mộ nằm chơ vơ giữa vùng trời nước. Quân ta nằm bố trí trên đảo chờ
chuyến tiếp tế, nhưng vì các chiến hạm còn đang theo dõi thám sát những
hành động của tàu Trung cộng, nên mãi đến chiều ngày 17.1.1974 mới có
tàu đến đổ xuống một khối lượng lương khô cho 93 ngày, có nghĩa là Bộ Tư
Lệnh Mặt Trận Hoàng Sa của Hải Quân Đại Tá Hà Văn Ngạc đã dự định phải
giữ đảo ít nhất là ba tháng. Tiếng súng hải chiến bắt đầu nổ trên vùng
biển Hoàng Sa ngày 19.1.1974. Lúc đó là 10 giờ 25 sáng. Lúc 10 giờ 22
phút, một hộ tống hạm Trung cộng loại Kronstadt đã hướng mũi tàu đâm
thẳng vào Khu Trục Hạm HQ 4 Trần Khánh Dư đang giữ chặt đảo Quang Hòa.
HQ 4 nhận được lệnh khai hỏa từ Bộ Tư Lệnh Hải Quân ở Sài Gòn, quả đại
bác đầu tiên được bắn ra sau nhiều ngày sẵn sàng tác chiến đã trúng ngay
chiếc tàu giặc. Chiếc Kronstadt bị chìm xuống đáy biển. Chiếc HQ 4 bị
hư hại nhẹ. Với chiến thắng nức lòng đó, những HQ 5, HQ 10 và HQ16 tuần
hành chung quan các đảo Quang Hòa và Duy Mộng đồng nổ súng đánh đuổi
địch. Cả một vùng Hoàng Sa ầm tiếng sấm phẫn nộ của người nước Nam. Hộ
Tống Hạm Nhật Tảo HQ 10 trúng một chiếc hỏa tiễn Styx từ chiến hạm Trung
cộng bị hư hại rất nặng và chìm dần. Hải Quân Trung Tá Ngụy Văn Thà
trúng đạn giặc ở cầu thang chỉ huy, đã anh dũng hy sinh, 32 chiến sĩ
trên tàu bị mất liên lạc. Những thủy thủ của HQ 10 bềnh bồng giữa đại
dương đến 6 giờ 30 chiều ngày 22.1.1974 thì được thương thuyền Hòa Lan
KOPIONELLA vớt được 23 người, cách phía Đông Đà Nẵng 287 cây số. Sáng
hôm sau, chiến hạm Việt Nam đến tiếp nhận số chiến sĩ lưu lạc này, trong
số đó có thân xác của Hải Quân Đại Úy Nguyễn Mạnh Trí, Hạm Phó HQ 10,
đã chết và 2 chiến sĩ bị thương.
Những
chiến sĩ Biệt Hải nằm trên đảo Vĩnh Lạc nhìn về hướng Duy Mộng và Quang
Hòa cách đảo chừng 34 cây số đã thấy những đốm lửa sáng lóe lên. Đoàn
viên truyền tin liên lạc với Đài Khí Tượng thì được biết một tàu Trung
cộng đã bị quân ta bắn trúng đang từ từ chìm xuống biển cả. Những người
lính Biệt Hải reo hò vang dậy chào mừng chiến công của đồng đội. Dẫu
biết rằng Hải Quân Việt Nam ở thế hạ phong về tàu chiến và vũ khí, nhưng
ngay phát súng đầu, HQ 4 Trần Khánh Dư đã nhắc cho giặc Bắc nhớ lại
trận hải chiến kinh hoàng ở cửa biển Vân Đồn năm 1287, Tướng Quân Trần
Khánh Dư đã đánh chìm hàng trăm chiến thuyền của tướng Ô Mã Nhi và tên
hải tặc Trương Văn Hổ, mà đã đẩy đạo quân 20 vạn của Thoát Hoan trên bộ
vào thảm cảnh chết đói và hoàn toàn chiến bại. Giao chiến bằng tàu
thường không thắng nỗi bốn chiếc HQ thời Đệ Nhị Thế Chiến của ta, Trung
cộng phải hối hả điều thêm những chiến hạm tối tân Komar trang bị hỏa
tiễn tầm xạ Dù vậy, các HQ của Hải Quân Việt Nam cũng đã hủy diệt thêm
một tàu và làm hư hại hai chiếc khác, trước khi nhận được lệnh rút ra
khỏi quần đảo Hoàng Sa sau hai giờ pháo chiến. Một kế hoạch đánh tập
kích lực lượng địch vài ngày sau đó của Bộ Tư Lệnh Hải Quân Việt Nam
được phác họa, nhưng đã không được thực hiện vì nhiều lý do khác nhau.
Cuộc hải hành bằng xuồng cao su trên đại dương
Ba
ngày trấn giữ Vĩnh Lạc không thấy có Toán Thám Sát nào đến thay thế,
hướng Hoàng Sa đã im tiếng súng mà trên không luôn có nhiều phi cơ rất
lạ bay lượn vòng vòng, Trung Úy Liêm nhận định rằng tình hình ngày càng
rất bất lợi cho đảo Vĩnh Lạc, với một nhúm chiến sĩ ít ỏi như thế này.
Có tin Trung cộng đã điều chiến hạm đến tấn công Cam Tuyền và Vĩnh Lạc.
Từng đợt hải pháo của tàu giặc dội ì đùng xuống một diện tích nhỏ bé của
hòn đảo, rồi bốn chiếc Mig 21 và Mig 23 xuất phát từ đảo Hải Nam bay
đến oanh kích dọn bãi để lính địch đổ bộ. Con số chiến hạm Trung cộng
tham chiến đã lên đến 40 chiếc. Trung Úy Liêm quyết định chờ đêm tối
dùng xuồng cao su thoát ra khỏi Vĩnh Lạc. Thật không may mắn cho những
người lính cô đơn này, chiếc xuồng cao su lại bị lủng một lỗ nơi miệng
cao su lót đáy, không biết có phải là do bởi mảnh pháo địch, nước biển
tràn vào, các Biệt Hải xé vải nhét lại. Tình thế thật bi đát. Các chiến
sĩ phải ngồi rải chung quanh thành ca nô, tránh ngồi tập trung ở giữa
tránh tình trạng quá nặng. Trong khi quân ta âm thầm chèo ra ngoài khơi
thì bỗng có quang hiệu của tàu Trung cộng gọi trở lại, nhưng Trung Úy
Liêm ra lệnh cho các chiến sĩ tiếp tục hướng mũi ra biển. Thà chết vinh
giữa biển cả, còn hơn là sống nhục trong lao tù cộng sản.
Chiếc
xuống tiếp tục di chuyển về hướng Tây Nam. Sáu mái chèo thay nhau quạt
nước. Một cái mền được dùng làm buồm căng trên một cái cột buồm bằng một
cành tre tìm thấy trên đảo. Sức gió đã đẩy chiếc xuồng ọp ẹp đó xa dần
đảo Vĩnh Lạc. Thêm một mảnh đất của Việt Nam đã lọt vào tay giặc. Tình
hình ngày càng tồi tệ, khi lương thực đem theo đã dần cạn, quân ta phải
hạn chế ăn uống, bi đát đến nỗi mỗi người chỉ có 6 muỗng nước mỗi ngày.
Đến ngày thứ ba, số nước dự trữ chỉ còn có 30 lít, nhưng vì bị sóng nhồi
nên đã bị đổ mất 10 lít, nên đành phải chịu giới hạn đến tối đa. Đến
ngày thứ năm cuộc hành trình, chỉ uống nước mà không còn thức ăn, chiếc
xuồng cao su nhấp nhô trên vùng biển động cấp 5, 6 chỗ bị lủng vẫn luôn
luôn là mối đe dọa chết chóc của 15 người lính đã rất yếu sức. Ngày nắng
như nung, lượng nước trong cơ thể bốc hơi nhanh chóng tạo ra hiện tượng
mất nước (dehydration)., đêm thì lạnh buốt đến tận xương tủy. Chỉ có
sức chịu đựng phi thường của những người lính cứng như thép Biệt Hải mới
có thể sống sót qua thử thách này.
Ở
giữa trùng khơi mênh mông không thấy đâu là bến bờ, dưới những cơn
thịnh nộ của thủy thần đại dương, con người bé nhỏ chỉ có thể nguyện cầu
xin được che chở. Thật mầu nhiệm, lời cầu nguyện đó của 15 Biệt Hải
dường nhưng đã được nghe nhận từ cõi thiêng liêng. Theo lời kể của Trung
Sĩ Nguyễn Trọng Tuấn, nhân viên điện tử, lúc đặt chân xuống thuyền,
nhiều Biệt Hài đã khấn nguyện xin cho được an lành trở về với đất liền,
với đồng bào và với quân đội để tiếp tục chiến đấu. Phép huyền diệu đó
đã bắt đầu hiện ra từ ngày thứ sáu, mà tất cả chiến sĩ trên ca nô đều
nhận biết như nhau.
Theo
Trung Sĩ Tuấn, khi đến vùng biển động, sóng lượn theo chiều ngang rất
nguy hiểm. Kinh nghiệm hải hành cho thấy rằng tàu nào gặp những con sóng
ngang kiểu này cũng đều lắc lư rất dễ sợ. Nhưng có một điều kỳ dị rất
khó giải thích là chiếc xuống lại lướt rất nhẹ nhàng một cách rất bình
thản trên đầu ngọn sóng chết người đó. Hơn thế, nó còn chạy vo vo một
mạch với tốc độ 40 cây số / giờ. Lợi dụng hiện tượng quái lạ này, anh em
Biệt Hải gác mái chèo nghỉ xả hơi. Đặc biệt khi gặp sóng cao thì một
lực nào đó giúp hóa giải sức giật ngaỵ Trung Sĩ Tuấn và nhiều Biệt Hải
đã thấy một cái gì đó không phải thuyền chài, mà nó gần giống như cái kỳ
cá nhú lên khỏi mặt biển, mà họ tin là cá voi, hay cá ông, những vị
thần cứu mạng trong huyền thoại trên biển Nam Hải của giới thuyền bè qua
lại trên vùng biển này. Có những con cá voi bị bão tấp vào bờ chết, đã
được dân chài vùng biển chôn và lập đền thờ để nhớ ơn chúng đã cứu giúp
ghe thuyền lúc hoạn nạn. Nhiều lúc các chiến sĩ nghe thấy nhiều tiếng
lục cục dưới đáy chiếc xuồng ca nô, mái chèo thấy nhẹ hổng. Có lẽ một
chú cá voi lạc loài nào đó tránh sóng bão đã tựa lưng vào cùng tồn tại
với con người, mà nhờ sức mạnh thần kỳ của nó đã đưa chiếc xuồng vượt
qua những con sóng chết. Hay đó có phải là phép nhiệm mầu của tạo hóa
xót thương những người lính chân chính của một dân tộc tang thương vì
nạn xâm lược của loài ác quỷ cộng sản. Không ai có thể giải thích được
sự kiện nàỵ Nhưng sáu mái chèo kiệt lực không thể nào đưa chiếc xuống đi
phom phom 40 cây số giờ như vậy được.
Giữa
cơn bão giật, nhóm chiến sĩ Biệt Hải dường như trông thấy hình dáng một
chiếc thuyền, quân ta vui mừng khấn nguyện cho nó tiến đến gần hơn, thì
thình lình nó quày đầu chạy ngược trở lại. Vài chiến sĩ quá nóng lòng
bèn bắn vài phát súng báo động. Nhưng càng nghe tiếng súng thì chiếc
thuyền đó càng phóng dữ. Chẳng mấy chốc nó đã biến mất giữa những con
sóng. Nhìn lại đã thấy một dải đất mờ, đối chiếu với hải đồ, thì có lẽ
chiếc xuống đã dạt về đến vùng biển Mũi Cù Lao Ré ngoài hải phận Quảng
Nam. Nhưng lưỡi hái của thủy thần vẫn còn treo đung đưa trên đầu, thấy
đất liền đó mà sóng vẫn kéo chiếc xuồng ra xa dần ngoài khơi, không chèo
vào được. Chiến sĩ trên xuồng chắc lưỡi tiếc hùi hụi, nếu đừng bắn súng
cho cá ông sợ chạy mất, thì biết đâu ngài đã đưa anh em vào gần bờ hơn.
Như vậy, Toán Biệt Hải đã được cá ông đưa vào hướng Đà Nẵng trọn một
đêm dài, nhưng định mệnh vẫn còn thử thách chí quật cường của những
người lính Hải Quân. Cuộc hành trình về với tổ quốc tiếp diễn.
Chiếc
xuống càng lúc càng đến gần hải phận Việt Nam Cộng Hòa hơn. Qua đến
ngày thứ bảy, các chiến sĩ Biệt Hải trông thấy nhiều ghe thuyền xuôi
ngược liền bắn súng xin tiếp cứu, nhưng những chiếc tàu này hoặc là
không nghe được tiếng nổ, hoặc là do một lý do nào khác đã chạy lảng ra
xa. Tình trạng sức khỏe của những Biệt Hải trên ca nô đã trở nên rất tồi
tệ, các anh như những cái xác còn cử động là nhờ ở ý chí tìm sống, nước
uống trên xuồng đã hết sạch từ lâu. Qua đến ngày thứ chín cuộc hải hành
chiến sĩ Biệt Hải đã phải uống nước tiểu của mình. Có lúc xuồng chỉ còn
cách bờ biển Sa Huỳnh thuộc tỉnh Quảng Ngãi chừng 100 hải lý, nhưng
không thể nào chèo vào được, ca nô vẫn bị cuốn trở ra ngoài khơi. Chiếc
buồm được điều chỉnh về hướng Đông Bắc để gió có thể thổi tạt các anh về
hướng Tây Nam, hy vọng tấp vào được gần bờ hơn. Mỗi đêm các chiến sĩ
Biệt Hải có trông thấy nhiều máy bay lượn vòng thật cao, có lẽ đang hoạt
động không ảnh, vì ánh sáng cứ lóe lên từng hồi chiếu xuống mặt biển.
Mặc dù không biết những phi cơ này thuộc quốc tịch nào, nhưng quân ta
vẫn bám víu vào một hy vọng mỏng manh, nên đã bắn lên nhiều hỏa hiệu để
đánh dấu mục tiêu cùng điểm đứng của chiếc ca nô. Nhưng tất cả đều vô
hiệu, có lẽ vì phi cơ bay với vận tốc nhanh và quá cao nên không thể
thấy rõ những trái sáng.
Sự
cố gắng đó cuối cùng rồi cũng được đền bù, ngày thứ mười, chiếc xuống
đã giạt vào hải phận tỉnh Bình Định, cách đảo Cù Lao Xanh thuộc xã Phước
Ninh, quận Nhơn Bình chừng 30 hải lý. Với khoảng cách này cái sống đã
hiện ra rõ nét, nhưng chiếc xuồng vẫn còn nằm ngoài hải phận quốc tế.
Trung Úy Lâm Trí Liêm, Trưởng Toán Biệt Hải, là người còn có thể đứng
vững trong tình thế tuyệt vọng nhất, anh thật xứng đáng là một cấp chỉ
huy tài ba, mà đã cứu được mạng sống của tất cả đoàn viên. Anh đã trông
thấy có ba chiếc ghe đánh cá đang hoạt động gần đó, mừng quá anh bắn mấy
phát súng cầu cứu. Hai chiếc ghe đầu tiên hoảng sợ bỏ chạy mất, nhưng
chiếc ghe thứ ba, trời ơi, nó đã lừng lững tiến đến. Các chiến sĩ Biệt
Hải đã có thể trông thấy những khuôn mặt Việt Nam đen rám vì nắng gió
biển khơi, những ánh mắt xúc cảm và những nụ cười quá thánh thiện. Toán
ngư phủ trên ghe vội vã ném dây cột chiếc xuồng cao su kéo về Qui Nhơn.
Lúc đó là khoảng 12 giờ 30 trưa ngày 21.1.1974. Những người lính Biệt
Hải sẽ nhớ mãi cái ngày hồi sinh này.
Trong
lúc kéo xuồng cao su trở vào hải cảng Qui Nhơn, thì các ngư phủ đã giúp
chừng phân nửa số chiến sĩ leo lên thuyền của họ, số còn lại quá mệt
mỏi đành phải nằm nghỉ dưới xuồng. Hạ Sĩ Nhứt Nguyễn Văn Duyên, nhân
viên Quản Kho hoàn toàn kiệt sức vì hiện tượng mất nước và thiếu ăn, anh
đã từ từ chìm vào cơn kích sốc, khi được đưa lên thuyền đánh cá, thì
anh đã nhắm mắt ra đi.
Điều dưỡng tại Quân Y Viện Qui Nhơn
Hải
Quân Trung Tá Nguyễn Ngọc Tĩnh, Chỉ Huy Trưởng Căn Cứ Hải Quân Qui Nhơn
khi hay tin một chiếc ghe đánh cá đã vào gần đến hải cảng Qui Nhơn với
15 chiến sĩ Biệt Hải, đã lập tức cho tàu ra đón tại ngọn hải đăng đưa
vào Căn Cứ và chờ phương tiện chở các anh về Quân Y Viện Qui Nhơn. Toán
Biệt Hải đã được chở vào và được nằm điều dưỡng trong Trại Nội Thương 9.
Bây giờ, các Biệt Hải đã đi đến cuối cuộc hành trình của mình sau hơn
mười một ngày đêm tham dự cuộc hải chiến Hoàng Sa lịch sử. Nhiều chiến
sĩ mê man nằm thiêm thiếp, mặc dù đã được các nhân viên Quân Y truyền
cho loại huyết tương màu vàng để bổ sung nguồn protein, khoáng và nước
bị mất. Các anh đã được bón cho những loại thức ăn nhẹ. Nửa căn phòng
của Trại Nội Thương 9 đã được dành riêng cho nhóm 14 chiến sĩ Biệt Hải,
dưới sự chăm sóc tận tụy của Quân Y và đồng đội thuộc Căn Cứ Hải Quân
Qui Nhơn.
Y
Sĩ Trung Tá Nguyễn Xuân Cẩm, Chỉ Huy Trưởng Quân Y Viện Qui Nhơn đích
thân ra lệnh cho nhân viên Quân Y dành cho các Biệt Hải sự chăm sóc đặc
biệt, vì các anh xứng đáng được đối xử như vậy. Mỗi ngày, mỗi chiến sĩ
được truyền một chai huyết tương, uống sữa trứng gà ngày hai lần, cam
vắt hai lần, uống nước súp xương thịt. Cuộc điều trị sang đến ngày
1.2.1974 thì các Biệt Hải được ăn cháo nấu với tim và cật, tình trạng
sức khỏe của các anh đã rất khả quan. Những con người thép mà đã từng
vượt qua chương trình huấn luyện “địa ngục” của Người Nhái, chẳng mấy
chốc đã có thể ngồi dậy nói chuyện thoải mái và vui vẻ với tất cả những
phái đoàn quân và dân tấp nập kéo nhau vào thăm hỏi, tặng quà khích lệ.
Đặc biệt, các chiến sĩ Biệt Hải luôn nhớ ơn Bác Sĩ Cẩm Chỉ Huy Trưởng đã
túc trực ngày đêm săn sóc các anh.
Phái
đoàn đầu tiên đến thăm các chiến sĩ Vĩnh Lạc, Hoàng Sa, do Hải Quân Đại
Tá Trịnh Quan Xuân, Tư Lệnh Vùng II Duyên Hải, đã dùng trực thăng đến
an ủi và ủy lạo các anh với nhiều tặng vật trong ngày 31.1.1974. Đến 4
giờ chiều cùng ngày, Đại Tá Hoàng Đình Thọ, Tỉnh Trưởng kiêm Tiểu Khu
Trưởng Bình Định hướng dẫn một phái đoàn khác vào thăm. Sang ngày
1.2.1974, đến lượt Hải Quân Đại Tá Nguyễn Đức Vân, Trưởng Phòng Kế Hoạch
Bộ Tư Lệnh Hải Quân, đại diện Đề Đốc Trần Văn Chơn, Tư Lệnh Hải Quân,
đã đến thăm hỏi chiến sĩ trong buổi chiều và trao tặng mỗi anh số tiền
5,000 đồng. Món tiền tuy nhỏ nhưng nói lên cái tình giữa chiến hữu huynh
đệ với nhau, và nó còn bày tỏ lòng tri ân của người hậu phương dành cho
những chiến sĩ ở mãi tận ngoài đại dương.
Huy chương trao tặng cho những ân nhân
Một
trong những cuộc viếng thăm có ý nghĩa nhất do Phó Đề Đốc Tư Lệnh Phó
Hải Quân, hướng dẫn buổi sáng ngày 1.2.1974. Tư Lệnh Phó đã đại diện Tư
Lệnh Hải Quân đến thăm hỏi, khích lệ và ủy lạo 14 chiến sĩ Biệt Hải. Tất
cả các Biệt Hải đều vinh dự được tuyên dương công trạng, hãnh diện nhận
mỗi người một huy chương cao quí Anh Dũng Bội Tinh. Phòng Tổng Quản Trị
Hải Quân cũng trình Bộ Tư Lệnh Hải Quân đề nghị Bộ Tổng Tham Mưu thăng
cấp đặc cách cho tất cả 14 Biệt Hải. Không quên những người ngư phủ đã
cứu sống chiến sĩ Hoàng Sa, phái đoàn của Tư Lệnh Phó dùng tàu nhỏ di
chuyển sang Căn Cứ Hải Quân Qui Nhơn để thay mặt chính quyền và Quân Lực
Việt Nam Cộng Hòa bày tỏ lòng tri ân với năm công dân Việt Nam Cộng
Hòa. Năm vị ân nhân này đã cảm xúc nhận năm chiếc huy chương cao quí của
Hải Quân là Hải Vụ Bội Tinh. Buổi lễ tri ân được tổ chức đơn giản nhưng
trang trọng. Có thể là năm người ngư dân bình thường và vô danh này
nghĩ rằng việc cứu sống những người lính Việt Nam Cộng Hòa là một việc
bình thường trên biển cả với nhau. Nhưng chính là ở nghĩa cử này đã nói
lên được một ý nghĩa cao cả, thắm thiết từ tận đáy lòng của họ. Đó là
Tình Quân Dân gắn bó mà người lính gian nan của chúng ta qua những năm
tháng phơi xương trải thịt chiến đấu bảo vệ đất nước và dân tộc đã chiếm
được mối tình cảm của đồng bào ở hậu phương. Hải Vụ Bội Tinh vẫn chưa
thấy đủ lòng tri ân, Hải Quân Trung Tá Lê Văn Thì, Trưởng Phòng Tổng
Quản Trị, Bộ Tư Lệnh Hải Quân, đã làm tờ trình xin Bộ Tổng Tham Mưu ân
thưởng cho ông Dư Thanh Long, chủ nhân chiếc thuyền đánh cá mang số
3874, huy chương Nhân Dũng Bội Tinh. Cuộc trao gắn chiếc Bội Tinh sẽ
được tổ chức ngay sau khi nhận được Quyết Định của Bộ Tổng Tham Mưu.
Ngoài ông Long là chủ nhân chiếc thuyền, còn lại là những thủy thủ Dư
Thanh Dũng, Nguyễn Tâm, Nguyễn Ngọc, Lý Luông, tất cả đều cảm thấy sung
sướng khi chính các anh đã cứu vớt kịp thời các chiến sĩ Biệt Hải. Câu
chuyện tàu 3874 tìm thấy chiếc xuồng ca nô mà trên đó 14 chiến sĩ của
chúng ta đã gần như kiệt lực đã do chính ông chủ tàu kể lại như sau.
Ông
Dư Thanh Long đang lái chiếc thuyền đánh cá ngoài khơi Qui Nhơn, lúc đó
khoảng 12 giờ 30 trưa. Ông Long chợt nhìn thấy một điểm đen ngoài xa,
cách chiếc thuyền đánh cá của ông độ hai cây số. Lúc đầu ông Long tưởng
là dân chài đánh cá gặp tai nạn nên dùng thúng chai chèo vào đảo Cù Lao
Xanh, nhưng khi đến gần ông nhận thấy không phải, nên đã gọi những thủy
thủ thức dậy để sẵn sàng cứu người, vì lúc đó anh em đang ngủ. Chiếc tàu
đánh cá càng đến gần, thì nhóm ông Long đã có thể thấy rõ nhiều người
ăn mặc rất lôi thôi, nếu không muốn nói là tơi tả, nhiều cánh tay đưa
cao lên những khẩu súng. Là một người đánh cá từng trải và gan dạ, ông
Long cẩn thận cho tàu của mình cặp sát vào chiếc xuồng cao su, ông đã
nhận thấy trong số người lạ mặt này những bộ quân phục quen thuộc, nhưng
tất cả kiệt sức nằm rũ riệt trong xuồng. Ông Long nghiêng mình hỏi vói
xuống, rằng lại sao lại đến nông nỗi như thế. Trung Úy Liêm còn tỉnh
nhất đã gào to lên:
- Tụi tôi đánh Hoàng Sa thoát về đây, xin cứu nhanh và đưa về Căn Cứ Hải Quân.
Ông
Long phái mấy thủy thủ khỏe mạnh nhất nhảy xuống chiếc ca nô bồng lên
từng người, những chiến sĩ nào còn có thể leo được thì tự leo lấy, nhưng
phần lớn các anh đều phải nhờ sự giúp sức của các ngư dân. Khi đã leo
lên được hết trên tàu, các Biệt Hải chỉ còn có thể nằm sải tay ra thở
dốc và đòi nước như điên. Nhân có ấm nước đang sôi, anh em thuyền chài
thi nhau thổi cho nguội bớt và trao cho các Biệt Hải nhấp từng ngụm cầm
chừng. Đồng thời, các thủy thủ cũng dùng số thuốc cấp cứu mang theo trên
tàu để cho các chiến sĩ dùng tạm. Nhận thấy tình trạng các Biệt Hải quá
yếu, ông Long gọi bốn thủy thủ đem nồi cháo hồ đổ cho mỗi người nửa
chén. Được một lúc, thấy những người lính có vẻ tươi tỉnh hơn, ông lại
cho người đổ cháo tiếp, cứ mỗi nửa giờ đút cháo một lần. Tình hình sức
khỏe các anh đã khả quan rất nhiều, trong lúc chiếc thuyền chỉ còn cách
hải cảng Qui Nhơn chừng mười cây số. Ông Long đã rất lấy làm xót xa là
đã không cứu được Biệt Hải Nguyễn Văn Duyên, vì khi anh được khiêng lên
tàu, thì thân thể của anh đã bị tê liệt, anh đang thở những hơi cuối
cùng. Chiếc ghe đánh cá đã xả hết tốc lực phóng vào bờ, với một hy vọng
mỏng manh chạy đua với thời gian và thần chết, nhưng đã không còn kịp
nữa rồi. Biệt Hải Nguyễn Văn Duyên đã anh dũng đền nợ nước. Chắc anh
linh của anh cũng đã thanh thản bốc lên trên khoảng trời trong xanh và
trên mặt sóng của quê hương. Anh đã về đến hải phận Việt Nam và đã ra đi
trong những giọt nước mắt nghẹn ngào của anh em.
Một
vài khoảnh khắc sau, một chiếc giang đỉnh của Căn Cứ Hải Quân Qui Nhơn
đi tuần đã bắt gặp chiếc thuyền, được biết tự sự, đã khẩn cấp gọi về Bộ
Chỉ Huy để chuẩn bị phương tiện cấp cứu. Nhiều chiến đỉnh xuôi ra khơi
để hộ tống chiếc tàu đánh cá tiến vào Căn Cứ. Cuộc hành trình của 15
Biệt Hải vượt thoát từ mặt trận Hoàng Sa đã chấm dứt. Tuy rằng các anh
và những chiến hạm HQ 4 Trần Khánh Dư, HQ 5 Trần Bình Trọng, HQ 10 Nhật
Tảo và HQ 16 Lý Thường Kiệt đã phải đớn đau rút bỏ Hoàng Sa, nhưng ít
nhất Hải Quân Trung cộng đã kinh hãi khi phải đối đầu với cơn phẫn nộ
của hậu duệ Ngô Vương Quyền, Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn, dù chúng có
tạm thời chiếm được Hoàng Sa nhưng cũng đã phải trả cái giá rất đắt. Hai
chiến hạm bị chìm và hai chiến hạm bị hư hại.
Weblink:
http://suutap4vung.blogspot.de/2016/01/so-phong-ve-duyen-hai-bay-hien.html
Keine Kommentare:
Kommentar veröffentlichen