Dieses Blog durchsuchen

Freitag, 8. Januar 2016

Lưu Trọng Lư -một thi sỹ cuả tình yêu

MN: Những vần thơ đẹp như một bức tranh, thơ mộng  cuả thi sỹ Lưu Trong Lư..một viên ngọc qúy rtrong thi dàn văn học sử cuả chúng ta






Thơ sầu rụng
         Vầng trăng từ độ lên ngôi
        
        Năm năm bến cũ em ngồi quay tơ.
Ðể tóc vướng vần thơ sầu rụng
        Mái tóc buồn thơ cũng buồn theo.
Năm năm tiếng lụa xe đều...
        Những ngày lạnh rớt, gió vào trong cây.

Nhẹ bàn tay, nhẹ bàn tay
        Mùi hương hàng xóm bay đầy mái đông.
Nghiêng nghiêng mái tóc hương nồng
        Thời gian lặng rớt một dòng buồn tênh.



Mây trắng
        Mây trắng bay đầy trước ngõ tre
Buồn xưa theo với gió thu về
        Vài chàng trai trẻ sầu biêng biếc
Mộng nở trong lòng sắc đỏ hoe.

Núi xa
        Núi xa, nhà vắng, mưa mau,
Mênh mông cồn cát, trắng phau ngõ dừa.
        Trong thôn văng vẳng gà trưa,
Lắng nghe đúng ngọ chuông chùa... nện không.


Trăng lên
        Vừng trăng lên mái tóc mây
Một hồn thu lạnh, mơ say hương nồng
         Mắt em là một dòng sông
Thuyền ta bơi lặng trong dòng mắt em.

         Một chút tình
Chửa biết tên nàng, biết tuổi nàng,
         Mà sầu trong dạ đã mang mang.
Tình yêu như bóng trăng hiu quạnh,
         Lạnh lẽo đêm trường, giãi gió sương.

Ta chỉ xin em một chút tình,
        Cho lòng thắm lại với ngày xanh.
Sao em quên cả khi chào đón,
        Tình ái, chiều Xuân, đến trước mành?
Rộn rã cười vang một góc lầu,
        Ngây thơ em đã biết gì đâu!
Ðêm khuya trăng động trong cây lá,
        Vò võ ta se mấy đoạn sầu.

Lác đác ngày xuân rụng trước thềm,
        Lạnh lùng ta dõi bước chân em,
Âm thầm ấp mối xa xa... vọng,
         Ðường thế đâu tìm bóng áo xiêm?

Ðôi mắt em lặng buồn
        Nhìn thôi mà chẳng nói,
Tình đôi ta vời vợi
        Có nói cũng không cùng.
Yêu hết một mùa đông
         Không một lần đã nii,
Nhìn nhau buồn vời vợi
        Có nói cũng không cùng.

Trời hết một mùa đông
         Gió bên thềm thổi mãi
Qua rồi mùa ân ái,
        Ðàn sếu đã sang sông.

Em ngồi trong song cửa
       Anh đứng dựa tường hoa
Nhìn nhau mà lệ ứa,
        Một ngày một cách xa.




Ðây là giải Ngân-hà


Anh là chim ô-thước


Sẽ bắc cầu nguyện ước


Một đêm một lần qua.




Ðể mặc anh đau khổ


Ái ân giờ tận số


Khép chặt đôi cánh song!


Khép cả một tấm lòng!




II


Em là gái trong khung cửa


Anh là mây bốn phương trời;


Anh theo cánh gió chơi vơi,


Em vẫn nằm trong nhung lụa.




Em chỉ là người em gái thôi,


Người em sầu mộng của muôn đời,


Tình em như tuyết giăng đầu núi


Vằng vặc muôn thu nét tuyệt vời.




Ai bảo em là giai nhân


Cho đời anh đau khổ?


Ai bảo em ngồi bên cửa sổ


Cho vướng víu nợ thi nhân.




Ai bảo em là giai nhân


Cho lệ tràn đêm xuân?


Cho tình tràn trước ngõ?


Cho mộng tràn gối chăn?




III


Ngày một ngày hai cách biệt nhau


Chẳng được cùng em kê gối sầu


Khóc chuyện thế gian cười ngặt nghẽo


Cùng cười những chuyện thế gian đau.




Ngày hôm tiễn biệt buồn say đắm


Em vẫn đùa nô uống rượu say


Em có biết đâu đời vắng lạnh


Lạnh buồn như ngọn gió heo may.




Môi em đượm sắc mùi nho tươi,


Ðôi má em hồng chứa nụ cười


Ðôi mắt em say màu xán lạn,


Trán em để lỏng làn tóc rơi.




Tuy môi em uống lòng anh say,


Lời em càng nói càng chua cay


Anh muốn van em đừng nói nữa


Lệ buồn sẽ nhỏ trong đêm nay.




IV


Hãy xếp lại muôn vàn ân ái


Ðừng trách nhau, đừng ái ngại nhau


Thuyền yêu không ghé bến sầu


Như đêm thiếu phụ bên lầu không trăng.




Hãy như chiếc sao băng băng mãi


Ðể lòng buồn, buồn mãi không thôi.




Khi thu rụng lá


Em có bao giờ nói với anh


Những câu tình tứ thuở ngày xanh


Khi thu rụng lá bên hè vắng,


Tiếng sáo ngân xa vẳng trước mành.




Em có bao giờ nghĩ tới anh,


Khi tay vin rũ lá trên cành?


Cười chim, cợt gió, nào đâu biết:


Chua chát lòng anh biết mấy tình?




Lòng anh như nước hồ thu lạnh,


Quạnh quẽ đêm soi bóng nguyệt tà...


Ngày tháng anh mong chầm chậm lại;


Hững hờ em mặc tháng ngày qua...




Mùa đông đến đón ở bên sông,


Vội vã cô em đi lấy chồng,


Em có nhớ chăng ngày hạ thắm;


Tình anh lưu luyến một bên lòng?




Ðan áo


Ngày tháng em đan chiếc áo len,


Hững hờ để lạnh với tình duyên.


Mùa đông đến tự hôm nào nhỉ?


Lá rụng bay đầu dưới mái hiên.




Gió thổi hôm nay lá rụng nhiều,


Cậy em đan hộ tấm tình yêu


Ðể về mang ủ lòng anh lạnh,


Cho khoảng đêm trường đỡ quạnh hiu.




Tình điên


Mười bảy xuân em chưa biết sầu


Mối tình đưa lại từ đâu đâu...


Em xinh, em đẹp, lòng anh trẻ,


Dan díu cùng nhau giấc mộng đầu.




Tình trong như nước biển trong xanh


Huyền ảo như trăng lọt kẽ mành;


Phơi phới như hoa đùa nắng sớm


Rạt rào như sóng vỗ đêm thanh...




Hôm ấy trăng thu rụng dưới cầu,


Em cười, em nói suốt trăng thâu;


Yêu nhau những tưởng yêu nhau mãi,


Tình đến muôn năm chửa bạc đầu...




Ngày tháng trôi xuôi với ái ân...


Bên cầu lá rụng đã bao lần!


..................................................




Tình ái hay đâu mộng cuối trời,


Nhầm nhau giây lát hận muôn đời


Kẻ ra non nước, người thành thị,


Ðôi ngã tình đi, người mỗi nơi.




Hôm nay ngồi ngóng ở bên song,


Ta được tin ai mới lấy chồng;


Cười chửa dứt câu, tình đã vội...


Nàng điên trên "gối mộng" người thương.




Ta mơ trong đời hay trong mộng?


Vùng cúc bên ngoài, đọng dưới sương.


Ta dí đôi tay vào miếng kính,


Giật mình quên hết nỗi đau thương...




Ta hát dăm câu vô nghĩa lý;


Lá vàng bay lả vào buồng ta


Ta viết dăm câu vô nghĩa lý;


Người điên xem đến hiểu lòng ta.




Tiếng thu


Em không nghe mùa thu


Dưới trăng mờ thổn thức?




Em không nghe rạo rực


Hình ảnh kẻ chinh phu


Trong lòng người cô phụ?




Em không nghe rừng thu,


Lá thu kêu xào xạc,


Con nai vàng ngơ ngác


Ðạp trên lá vàng khô?

BẠN THÍCH MẪU NÀO NHẤT ?

MN: theo thông tín viên MN từ Paris...........!

MN thích fotos..số 6 & số 8..............!^^

BẠN THÍCH MẪU NÀO NHẤT ?


 Áo dài truyền thống cổ chữ V sâu điểm hoa mang đến sự mới mẻ, duyên dáng và thanh lịch cho bạn gái trong dịp Tết đến xuân về.


Zoom in (real dimensions: 568 x 852)Bộ sưu tập Vườn xuân của nhà thiết kế Liên Hương được MC Thanh Mai thể hiện. Các thiết kế dành cho ngày Tết mang đậm nét cổ truyền, thanh lịch và 
không kém phần gợi cảm. 



Zoom in (real dimensions: 568 x 852)Khác với mẫu áo dài thông thường, nhà tạo mốt làm mới với chi tiết cổ chữ V xẻ sâu, hoa thêu tô điểm tinh tế, đậm hương sắc mùa xuân.

Zoom in (real dimensions: 568 x 852)Image
Chất liệu chủ yếu trong bộ sưu tập là nhung the, những đóa hồng được sắp đặt quanh cổ áo rất nữ tính và không kém phần quyến rũ. 


Chi tiết cổ áo sâu rộng, hoa nhỏ dàn trải đều trên thân áo giúp các thiết kế mùa xuân trở nên sống động. Phom áo mới mẻ nhờ màu xanh lá, tím hồng lãng mạn.

Zoom in (real dimensions: 568 x 852)Image
Áo dài tối màu được hài hoài cùng quần gam nổi tạo nét trẻ trung, bắt ánh nhìn.

Zoom in (real dimensions: 568 x 852)Image
Những nhánh hồng được sắp tinh xảo trên thân áo, cổ áo tựa vườn hoa ngập sắc xuân. 

Zoom in (real dimensions: 568 x 852)Image
Trên nền vải nhung đỏ nổi bật là họa tiết hoa hồng lớn trang nhã. 

Zoom in (real dimensions: 568 x 852)Image
Tay áo cũng được viền thêu hoa duyên dáng. Nữ MC chọn tông trang điểm màu nhạt, mái tóc suông buông nhẹ một bên vai.

Zoom in (real dimensions: 568 x 852)


Image 
Bộ sưu tập thay đổi bằng loại vải taffta, hoa văn hoa điểm nhẹ ở cổ áo, thân áo.

Petrus Trương Vĩnh Ký - Petrus Ký là một nhà bác học VN về ngôn ngữ, giỏi tiếng Hán, Nôm và Pháp, người đã có công trong phát triển chữ Quốc ngữ.

MN một trang link về công nghiệp cuả cụ Petrus Truơng Vĩnh Ký mà bọn thất học ngu xuẫn đã bôi bỏ tên truờng cũng như tên đuờng...bọn vô loại Cộng Sản Hà Nội và toàn bộ cái đảng cuớp cuả chúng có biết gì về chữ ân nghĩa và lòng biết ôn cuả dân tộc ....mà là một lũ ngu dốt thiểm cận chúng thay vô đó bằng ngôn ngữ Việt không giống ai kỳ cục loạn xạ ,quái gỡ như bản chất ngu đần vô giáo dục cuả chúng................!^^
theo trang link cuả Webseite :
http://conggiao.info/news/2170/24156/index.aspx 

Petrus Trương Vĩnh Ký 8/8/2014 10:22:55 AM Petrus Ký là một nhà bác học VN về ngôn ngữ, giỏi tiếng Hán, Nôm và Pháp, người đã có công trong phát triển chữ Quốc ngữ.

PetrusTruongVinhKy-1.jpg  


Tuy nhiên vì là một tín đồ Thiên Chúa nên không được triều đình Huế vinh danh, đến thời kỳ cách mạng dù rằng Cụ Pétrus Ký đã là người thiên cổ nhưng vẫn bị gán cho là theo Pháp. Chúng ta trân trọng tài năng của một nhà bác học Việt Nam đã làm cho chữ quốc ngữ trong sáng ở thời kỳ đầu và trường Trung Học P.Trương Vĩnh Ký Saigon đã đào tạo biết bao thế hệ trí thức và khắp năm châu,  các tài năng từ trường Petrus Ký đã đóng góp rất lớn cho trí tuệ khoa học của cả thế giới chứ không riêng gì VN. (Trí Vịnh)

Kể từ khi giáo sĩ Đắc Lộ (Alexandre de Rhodes) đến Việt Nam truyền đạo vào năm 1625, Đắc Lộ đã là người tiền phong trong việc quốc ngữ hoá tiếng việt từ gốc hán sang mẩu tự La mã mà tác phẩm nổi tiếng là cuốn tự điển Việt-Bồ-La (Việt-Bồ đào Nha-Latin) ra đời vào năm 1651.


Với hàng trăm tác phẩm, Pétrus Trương Vĩnh Ký là một trong những người đã đóng góp vào việc canh tân và hoàn thiện tiếng việt, một ngôi trường lớn ở Sài Gòn đã lấy tên ông đặt cho trường học nổi tiếng, nơi đã đào tạo những người con ưu tú của miền Nam VN trước 1975 – Ngôi trường đã bị đổi tên sau khi miền Nam được giải phóng – tuy nhiên tên tuổi của Pétrus Trương Vĩnh Ký vẫn còn ngự trị trong tiến trình xây dựng văn hoá và văn học Việt Nam, một vài người đã viết về Pétrus Ký:

Thanh Lãng nhận xét: Trương Vĩnh Ký không đạo mạo, không đài các, không cao kỳ; ông trai trẻ hơn, ông mới hơn… Và nhờ ông, câu văn Việt được giải phóng khỏi những xiềng xích chữ Hán. Chủ trương của ông chính là “cách nói tiếng An Nam ròng” và viết “trơn tuột như lời nói”. Nếu đem phân tích theo ngữ pháp thì thấy lôi thôi, nhưng so với văn xuôi khác ra đời sau ông 20, 30 năm, văn ông vẫn còn hay hơn, mạch lạc khúc chiết hơn.

Lê Thanh nhận xét: Ông là người, từ nhỏ được giáo dục theo phương pháp Âu Tây, khi trưởng thành theo giúp việc người Pháp, thế mà bằng hữu viết thư giục ông, ông không nghe, vẫn khăng khăng từ chối để suốt đời được giữ bộ quần áo Việt Nam và suốt đời là một người Việt Nam thuần túy.


Trương Vĩnh Ký (6 tháng 12 năm 1837 – 1 tháng 9 năm 1898) khi mới sinh có tên là Trương Chánh Ký, tự Sĩ Tải, theo đạo Công giáo nên có tên thánh: Jean-Baptiste Pétrus, nên còn gọi tắt là Pétrus Ký. Ông là một nhà giáo, nhà báo, nhà văn và là nhà bác học Việt Nam, thông thạo 26 ngôn ngữ, được ghi trong Bách khoa Tự điển Larousse và là một trong 18 văn hào thế giới của thế kỷ 19. Ông để lại hơn 100 tác phẩm về văn học, lịch sử, địa lý, từ điển và dịch thuật.


Trương Vĩnh Ký thiết tha với nền văn học Quốc ngữ và được coi là người đặt nền móng cho báo chí quốc ngữ Việt Nam. Ông sáng lập, là tổng biên tập những tờ báo quốc ngữ đầu tiên, cũng là cây bút chủ chốt của rất nhiều báo khác. Vì thế có thể xác định rằng Trương Vĩnh Ký là người tiên phong trong làng báo chí Việt Nam – hay còn gọi là ông tổ của ngành báo chí việt, phương tiện truyền thông đại chúng đầu tiên ở Việt Nam, trước khi có đài phát thanh và truyền hình.

   PetrusTruongVinhKy-2.jpg

Tiểu sử

Trương Vĩnh Ký, người tại ấp Cái Mơn, xã Vĩnh Thành, tổng Minh Lý, huyện Tân Minh, phủ Hoàng An, tỉnh Vĩnh Long (nay thuộc huyện Chợ Lách, tỉnh Bến Tre – Kiến Hoà cũ). Ông là con thứ ba của Lãnh binh Trương Chánh Thi và bà Nguyễn Thị Châu. Năm ông 3 tuổi, thân phụ ông được triều đình cử đi sứ sang Cao Miên rồi mất ở bên ấy.

Đi học

Nhờ mẹ tần tảo, lên 5 tuổi Trương Vĩnh Ký được đi học chữ Hán, do thầy đồ dạy tại Cái Mơn. Đến năm lên 9 tuổi, ông được linh mục Tám đem về nuôi, vì nhớ ơn lúc nhà Nguyễn cấm đạo Công giáo gắt gao; ông Thi, tức cha của Pétrus Ký, đã hết lòng che giấu ông.


Ông Tám mất, có hai nhà truyền giáo người Pháp, thường gọi là Cố Hòa, Cố Long, biết Pétrus Ký vừa có trí thông minh vừa chăm học, nên đem về trường dòng ở Cái Nhum dạy chữ Latin. Năm 1848, Cố Long đưa Pétrus Ký sang học tại Chủng viện Pinhalu ở Phnom Penh, Cao Miên.


Năm 1851, trường này chọn 3 học sinh xuất sắc, trong số đó có Pétrus Ký, để cấp học bổng đi du học tại Chủng viện Giáo Hoàng ở Pinang thuộc (Malaysia). Đây là một trường chuyên đào tạo các tu sĩ cho vùng Viễn Đông…


Năm 21 tuổi (1858), Trương Vĩnh Ký đang học đến năm thứ 6, và chỉ còn một năm nữa là tốt nghiệp để chịu chức linh mục, thì vào lúc giữa năm, ông phải vội vàng về nước vì được tin người mẹ hiền qua đời.


Pétrus Ký trở về quê hương Cái Mơn giữa lúc Pháp đem quân vào chiếm Việt Nam, bắt đầu từ Đà Nẵng ngày 1 tháng 9 năm 1858, rồi Sài Gòn ngày 17 tháng 2 năm 1859, đến Gia Định, tiếp theo là việc mất ba tỉnh miền Đông Nam Kỳ. Vì thế, việc cấm đạo công giáo cũng diễn ra gay gắt hơn. Lúc ấy, Pétrus Ký phân vân rồi quyết định không trở lại chủng viện nữa.

Cộng tác với Pháp

Để tránh bị bắt bớ, Trương Vĩnh Ký chạy lên Sài Gòn vào tá túc nhà vị giám mục người Pháp Lefèbre, và được ông này giới thiệu làm thông ngôn cho Jauréguiberry vào ngày 20 tháng 12 năm 1860.


Năm 1861 Pétrus Ký thành hôn với bà Vương Thị Thọ (con gái ông Vương Ngươn, hương chủ làng Nhơn Giang, Chợ Quán) do linh mục Đoan họ đạo Nhơn Giang mối mai và dời về cư ngụ ở Chợ Quán, Sài Gòn.

Ngày 8 tháng 5 năm 1862, Pháp thành lập trường Thông ngôn (Collège des Interprètes), ông được nhận vào dạy.

Năm 1863, triều đình Huế cử một phái đoàn do Phan Thanh Giản cầm đầu sang Pháp xin chuộc ba tỉnh miền Đông, Phan Thanh Giản xin Trương Vĩnh Ký đi theo làm thông ngôn.


Sang Pháp, Pétrus Ký cùng phái đoàn nhà Nguyễn được triều kiến Napoléon III, gặp nhiều nhân vật tên tuổi thuộc nhiều lãnh vực khác nhau. Ngoài ra, ông còn được sang thăm Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Ý và được yết kiến Giáo hoàng tại La Mã.


Về nước, năm 1865, Trương Vĩnh Ký viết cho tờ Gia Định báo (tờ báo bằng chữ quốc ngữ đầu tiên) do ông Ernest Potteaux làm quản nhiệm.


Năm 1866, ông thay thế linh mục Croc làm hiệu trưởng Trường Thông ngôn. Ngày 15 tháng 9 năm 1869, ông được thủy sư đô đốc Pháp là Ohier bổ nhiệm làm chủ bút tờ Gia Định báo và tờ An Nam chính trị và xã hội.

Ngày 1 tháng 1 năm 1871, Trường Sư phạm (École normale) được thành lập, Pétrus Ký được cử làm hiệu trưởng.
Ngày 1 tháng 4 năm 1871, Pétrus Ký được Pháp phong hạng nhất huyện (hàm), được cử làm thư ký Hội đồng châu thành Chợ Lớn.
Năm 1873, Pétrus Ký được giao nhiệm vụ điều hành trường Tham biện Hậu Bổ (Collège des administrateurs stagiaires), dạy Việt và Hán văn và cũng bắt đầu viết sách.


Năm 1876, thống đốc Nam Kỳ Duperré cử ông ra Bắc Kỳ tìm hiểu tình hình miền Bắc. Năm 1877, ông là hội viên duy nhất và đầu tiên người Nam, được cử làm ủy viên hội đồng cai trị Sài Gòn.


Năm 1883, ông được Hàn Lâm Viện Pháp phong hàm Viện sĩ (Officier d’Académie).

Năm 1886, Paul Bert – nghị sĩ, hội viên Hàn lâm, bác học gia sinh vật học – được cử sang Đông Dương làm khâm sứ Trung Kỳ và Bắc Kỳ. Vốn là bạn từ trước, nên Paul Bert mời Trương Vĩnh Ký ra Huế giúp việc.


Đến Huế, Pétrus Ký được vua Đồng Khánh cho lãnh chức trong Cơ mật viện Tham tá, sung Hàn lâm viện Thị giảng học sĩ.


Ngày 11 tháng 11 năm đó, Paul Bert bất ngờ bị bệnh chết, Trương Vĩnh Ký bị nhóm thực dân không cùng cánh bỏ rơi, bạc đãi; và bản thân Pétrus Ký sau đó cũng bị triều đình Huế nghi kỵ và trù dập nên ông lấy cớ đau phổi xin từ chức về lại Sài Gòn dạy học tại trường Hậu Bổ, trường Thông ngôn và viết sách…




PetrusTruongVinhKy-3.jpg  

Cuối đời
Mặc dù đã trở về đời sống của một viên chức, nhưng Trương Vĩnh Ký vẫn bị người khác phe tìm cách hạ bậc lương và làm khó dễ việc vào ngạch giáo sư sinh ngữ Đông Phương của ông. Rồi năm 1888, trường Thông ngôn đóng cửa, Pétrus Ký gần như thất nghiệp.

Và khi trước, lúc còn được ưu ái, những sách của Trương Vĩnh Ký đều được nhà cầm quyền Pháp bỏ tiền ra in, để phân phối cho học sinh. Nhưng từ khi bị hất hủi, lui về ẩn dật ở Chợ Quán, ông phải bỏ tiền riêng ra in ấn và tự phát hành. Sách ế ẩm khiến Pétrus Ký phải mắc nhiều nợ.

Năm 1887, sau khi đi công tác ở Bangkok để giải quyết vấn đề giữa Thái Lan và Đông Dương, ông nghỉ hưu. Năm 1888, ông xuất bản tạp chí tư nhân Thông Loại Khóa Trình (Miscellanées) được 18 số (1888 – 1889).

Sống trong hoàn cảnh buồn bã, túng quẩn, bệnh hoạn luôn, Pétrus Ký qua đời vào ngày 1 tháng 9 năm 1898.

Mộ phần và nhà ở khi xưa của ông (nay là nơi thờ phụng ông), hiện nằm nơi góc đường Trần Hưng Đạo và Trần Bình Trọng thuộc Quận 5, Sài Gòn.
Chức vụ, huân huy chương


Không những Trương Vĩnh Ký là một nhà văn tiền phong của nền văn học chữ quốc ngữ mà ông còn là một học giả rất nổi tiếng. Trong quá trình hoạt động, ông đã được nhận các chức việc và huân huy chương:

Nhận huy chương Dũng sĩ cứu thế của Tòa thánh La Mã ngày 1 tháng 10 năm 1863.


Năm 1871, được cử làm hội viên Hội Nhân Văn và Khoa học vùng Tây Nam nước Pháp, Hội nhân chủng học, Hội Giáo dục Á châu.


Năm 1874, được phong giáo sư ngôn ngữ Á Đông, vì Pétrus Ký đã thông hiểu 27 sinh ngữ trên thế giới.


Trong cuộc bầu chọn “Toàn Cầu Bác Học Danh Gia” vào năm 1874, Pétrus Ký đã được bình chọn đứng hàng thứ 17 trong 18 “Thế giới Thập Bát Văn Hào”.

Nhận huy chương Isabelle la Catholique của Tây Ban Nha ngày 27 tháng 6 năm 1886.
Trở thành hội viên Hội chuyên khảo về Văn hóa Á Châu ngày 15 tháng 2 năm 1876.
Trở thành hội viên Hội chuyên học địa dư ở Paris ngày 7 tháng 7 năm 1878.
Nhận huy chương Hàn Lâm Viện đệ nhị đẳng của Pháp ngày 17 tháng 5 năm 1883.


Nhận Tứ đẳng Long Tinh, Ngọc Khánh, Long Khánh của Nam triều ngày 17 tháng 5 năm 1886.

Nhận Bắc Đẩu Bội Tinh đệ ngũ đẳng của Pháp ngày 4 tháng 8 năm 1886.
Nhận Hàn Lâm Viện đệ nhất đẳng của Pháp ngày 3 tháng 6 năm 1887


Nhận Hàn Lâm Viện đệ nhất đẳng của Hoàng gia Cam Bốt.


Vua Đồng Khánh ban cho ông chức Hàn Lâm viện Thị giảng học sĩ.

Vua Khải Định ban hàm Lễ Bộ Tham Tri.
Vua Bảo Đại ban hàm Lễ Bộ Thượng Thư.


Trước đây, ông được Bộ Giáo Dục Việt Nam Cộng Hòa công nhận là một học giả, có công lao góp vào việc hoàn thiện tiếng việt nên đặt lại tên cho một ngôi trường trung học lớn nhất miền Nam (chuyển từ Lycée Pétrus Trương Vĩnh Ký sang Trường Trung Học Pétrus Ký). Sau năm 1975, trường này được đổi tên là trường trung học Lê Hồng Phong ở Sài Gòn.


Hiện nay tại Sài Gòn cũng có 1 trường mang tên Trương Vĩnh Ký là Trường THPT Tư thục Trương Vĩnh Ký.


   PetrusTruongVinhKy-4.jpg
Một số tác phẩm

Ông có rất nhiều tác phẩm (118 tác phẩm hoặc 121 tác phẩm), lược kê một số như:


- Truyện đời xưa

- Abrégé de grammaire annamite (Tóm lược ngữ pháp An Nam)

- Kim Vân Kiều (bản phiên âm ra chữ quốc ngữ đầu tiên)
- Petit cours de géographie de la Basse-Cochinchine
- Cours de langue annamite (Bài giảng ngôn ngữ An Nam)
- Voyage au Tonkin en 1876 (Đông Kinh du ký)
- Guide de la conversation annamite (Hướng dẫn đàm thoại An Nam)
- Phép lịch sự An Nam (Les convenances et les civilités annamites)
- Lục súc tranh công
- Cours de la langue mandarine ou des caractères chinois (Bài giảng tiếng quan thoại hay chữ Trung Quốc)
- Cours d’histoire annamite (Bài giảng lịch sử An Nam)
- Dư đồ thuyết lược (Précis de géographie)
- Đại Nam tam thập nhất tỉnh thành đồ
- Cours de littérature annamite, 1891 (Bài giảng văn chương An nam)
- Cours de géographie générale de l’Indochine (Bài giảng địa lý tổng quát Đông Dương)
- Grand Dictionnaire Annamite-Français (Đại tự điển An Nam-Pháp) v.v…
Hiện còn nhiều trước tác của Trương Vĩnh Ký đã bị thất lạc, không còn đầy đủ hoặc nằm ở thư viện nước ngoài.

Nỗi long

Hay tin Pétrus Ký, một con người tài giỏi, sẽ ra làm việc với Pháp, một số quan lại nhà Nguyễn đâm ra nghi kỵ ông. Nhưng sau nhiều toan tính, ông nghĩ rằng phải làm việc để giúp đỡ đồng bào, nhất là lúc ấy, Pháp và Nam triều chưa hiểu nhau, chưa thành thật với nhau. Pétrus Ký đã mượn câu châm ngôn Latin Ở với họ mà không theo họ (Sic vos non vobis), để biện minh cho việc nhận lời làm thông ngôn cho Jauréguiberry.
Ngày 8 tháng 11 năm 1870, ông có lời di huấn: Người đời sanh ký tử quy, đàng đi nước bước vắn vỏi lắm. Nhưng ai cũng có phận nấy, hể nhập thế cuộc bất khả vô danh vị, cũng phải làm vai tuồng mình cho xong đã, mới chun vô phòng được. Sự sống ở đời tạm nầy, đỏ như hoa nở một hồi sương sa; vạn sự đều chóng qua hết, tan đi như mây như khói. Nên phải liệu sức, tùy phận mà làm vai tuồng mình cho xong….
Bài thơ ông sáng tác lúc gần lâm chung :
Quanh quanh quẩn quẩn lối đường quai,
Xô đẩy người vô giữa cuộc đời.
Học thức gửi tên con mọt sách,
Công danh rốt cuộc cái quan tài.
Dạo hòn, lũ kiến men chân bước,
Bò xối, con sùng chắt lưỡi hoài!
Cuốn sổ bình sanh công với tội,
Tìm nơi thẩm phán để thừa khai.


Và câu ghi nơi nhà mồ bằng tiếng Latinh: Miseremini Mei Satem Vos Amici Mei (Xin hãy thương tôi, ít ra là những bạn hữu của tôi).


PetrusTruongVinhKy-5.jpg  


Về hoa quả ở Cái Mơn


Ông còn được xem là có công trong ngành làm vuờn ở Cái Mơn. Các giống cây ăn trái như là sầu riêng, chôm chôm tróc, măng cụt tróc, bòn bon (Lansium domesticum)… đều do ông đem từ Pinang mỗi khi bãi trường về thăm nhà.

Vài nét về Trường Trung Học Pétrus Trương Vĩnh Ký

Năm 1925 kiến trúc sư Hebrard de Villeneuf được chỉ định lập bản đồ thiết kế một ngôi trường mới tại Chợ Quán.

Ngày 28-11-1927 Toàn quyền Đông Dương G.Gal ra một nghị định thiết lập tại Chợ Quán một phân hiệu tạm thời của Collège Chasseloup Laubat dành cho học sinh người bản xứ lấy tên là Collège de Cochinchine. Phân hiệu này đặt dưới sự điều hành của Ban Giám Đốc trường Chasseloup Laubat và một giáo sư phụ trách tổng giám thị của phân hiệu.

Năm 1928 khi các khu trường mới xây dựng xong,ngày 11-8-1928 Toàn quyền Đông Dương tạm quyền René Robert ký nghị định số 3116 gồm 6 điều,thành lập tại Chợ Quán ,kể từ kỳ tựu trường 1928-1929,một trường Cao Đẳng Tiểu học Pháp bản xứ, chuyển giao phân hiệu tạm thời của Collège Chasseloup Laubat nói trên vào trường này,và được mang tên là Lycée Petrus Trương Vĩnh Ký.


Lycée Petrus Trương Vĩnh Ký , thường gọi tắt là Lycée Petrus Ký khai giảng ngày đầu tiên là ngày 01-10-1928 . Hiệu trưởng đầu tiên là Ông Sainte Luce Banchelin, giám học là Ông Boulé, phát ngân viên là Ông Mahé. Chủ tịch hội đồng quản trị là Ông Gazano và các ủy viên người Việt Nam là Ông Nguyễn Thành Giung, tiến sĩ hóa học, giáo sư khế ước, Ông Hồ Bảo Toàn và Trần Lê Chất, quan chức, là hai phụ huynh học sinh, ủy viên người Pháp là hai Ông Sainte Luce Banchelin và Mahé.


Từ 1949 đến 1950 học sinh Petrus Ký tham gia các phong trào đấu tranh của học sinh Saigon như chống độc lập giả hiệu, tẩy chay cuộc viếng thăm hai trường Petrus Ký và Gia Long của Bảo Đại vào tháng 9-1949, đòi học tiếng Việt trong nhà trường. Ngày 23-11-1949 toàn trường bãi khóa đòi thả 5 học sinh của trường bị bắt. Ngày 24-11-1949 nhà cầm quyền lúc bấy giờ ra lệnh đóng cửa trường vô thời hạn. Đến tháng 12-1949 phụ huynh và học sinh đòi nhà cầm quyền mở cửa trường trở lại cho học sinh đi học. Nha học chánh Saigon bắt buộc học sinh muốn học lại phải làm cam kết. Cuộc đấu tranh dằng co đến ngày 9-01-1950 học sinh các trường đồng loạt hẹn nhau đi biểu tình yêu cầu Giám đốc Nha học chánh và Thủ hiến giải quyết. Chánh quyền không giải quyết được và lúc 12g30 theo lệnh của thực dân Pháp đưa lính đến giải tán và đàn áp cuộc biểu tình dẫn đến cái chết của Anh Trần Văn Ơn, học sinh lớp Seconde (lớp 10 bây giờ) của trường Petrus Ký.


   PetrusTruongVinhKy-6.jpg
Cái chết anh Trần Văn Ơn dấy lên làn sóng căm phẩn cả nước. Ngày 12-01-1950 gần cả triệu người ở Saigon và nhiều tỉnh về dự đám tang anh Ơn, hầu như cả Thành phố Saigon ngưng hoạt động, ngưng họp chợ, các cửa hàng đóng cửa, công chức không đến Sở làm việc, học sinh, sinh viên trường công tư, công nhân, người buôn bán, xích lô… đến dự lễ truy điệu anh Ơn tại trường Petrus Ký. Sau đó trường mở cửa lại và nhà cầm quyền Pháp bãi bỏ chế độ nội trú của trường.

Muốn vào học trường Petrus Ký học sinh ưu tú của Saigon và các tỉnh phía Nam phải qua kỳ thi tuyển rất gay go, từ khi mới thành lập cũng vậy mà sau này cũng vậy. Vì thuộc thành phần chọn lọc như vậy cho nên học sinh Petrus Ký đậu rất nhiều và rất cao trong các kỳ thị Kỳ thi Trung Học Đệ Nhất Cấp năm 1959 chẳng hạn là kỳ thi rất hóc búa, toàn quốc chỉ có một người đậu hạng Bình mà thôi, và người đó là học sinh Petrus Ký. Về phương diện kỷ luật và trật tự thì có lẽ không có trường nào có kỷ luật và trật tự chặt chẽ, tốt đẹp bằng trường Petrus Ký. Ngày đầu tiên vào trường, đứng xếp hàng dưới những tàn cây sao cao ngất bên hông những dãy lớp học đồ sộ uy nghi, khi các lớp học sinh chỉnh tề theo hàng ngũ lần lượt đi vào sân trong và dừng lại ở trước cửa mỗi lớp một cách rất có trật tự và kỷ luật trong không khí trang trọng.

Học sinh Petrus Ký cũng chọc phá thầy cô, cũng đóng vai thứ ba học trò không khác gì những học trò các trường khác, nhưng chúng ta phải hãnh diện mà nói rằng cái phá hay cái đùa của học trò Petrus Ký có phần nào trí thức, ý nhị, và thông minh, chớ không quá quê mùa cục mịch, vô ý thức như một số học sinh các trường khác.

Phần đông giáo sư Petrus Ký là giáo sư được chọn lọc, rất có căn bản chuyên môn và cũng rất đạo đức. Các giáo sư được bổ nhiệm về trường Petrus Ký và một số các trường lớn khác ở Saigon thường phải là những người đậu đầu hay thật cao trong danh sách tốt nghiệp CĐSP hay ĐHSP sau này, hoặc những người đã dạy lâu năm ở tỉnh. Quý thầy đều rất tận tụy với việc giảng dạy, rất thương học sinh, và rất chú tâm đến việc bảo vệ uy tín và thanh danh của trường. Một số giáo sư Petrus Ký đã đảm nhiệm những chức vụ quan trọng trong ngành giáo dục sau khi dạy ở trường một thời gian.

(Vĩnh An chuyển, VRNs 08.08.2014)

Share |