BẠN CÓ BIẾT?
Bức hình LM Nguyễn Văn Lý bị bịt miệng ngay trong phiên tòa xử Ông là một trong những bức hình ô danh nhất của chế độ CSVN.
Hình này đã được làm pano dựng ở nhiều nơi công cộng, trên một số xa lộ trên thế giới.
BẠN NGHĨ GÌ VỀ NỀN CÔNG LÝ Ở VN?
+++
Linh
mục Tadeo Nguyễn Văn Lý, 69 tuổi, vừa được ra khỏi nhà tù là một tù
nhân lương tâm nổi tiếng của Việt Nam, bị Hà Nội kết án 4 lần với tổng
cộng hơn 53 năm tù giam.
Quá trình đi tù của LM Nguyễn Văn Lý trích từ bài viết của LM Phan Văn Lợi:
-
lần 1 từ ngày 07-09-1977 đến 24-12-1977 vì có liên quan đến việc phổ
biến hai bài tham luận của Tổng Giám Mục Nguyễn Kim Điền với nội dung
lên án nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam "chủ trương tiêu diệt tôn giáo".
-
lần 2 từ ngày 18-5-1983 đến 31-07-1992 (bản án 10 năm tù) với tội danh
“phá hoại khối đoàn kết toàn dân và phá rối an ninh”, thi hành án phạt
tại trại « cải tạo » Nam Hà.
- lần 3 từ ngày 17-05-2001 đến ngày
02-02-2005 (bản án 15 năm tù), với tội danh « Không chấp hành quyết định
hành chính của cơ quan nhà nước có thẩm quyền về quản chế hành chính”
và tội “Phá hoại chính sách đoàn kết”.
Câu hỏi đặt ra là:
Vì sao chính quyền csvn lại 04 lần bắt tù đày môt ông Linh mục với bản án tù giam và quản chế đến hàng chục năm trời?
Ông ấy đã làm điều gì khiến họ SỢ HÃI đến thế?
Ðức Cố TGM
Philipphê Nguyễn Kim Ðiền sau 1975:
Lời kể chi
tiết của Linh mục Nguyễn Văn Lý về sự kiện khủng khiếp nói trên.
Trân trọng gửi đến quý anh chị em xem qua
Sáng
26-3-1975, quân Bắc Việt treo cờ giải phóng trên Thành phố Huế.
Quân đội giải
phóng miền Nam VN thực chất cũng là quân Bắc Việt thôi, nhưng phải lấy cớ là
quân miền Nam giải phóng để tránh tiếng cho Hà Nội khỏi xâm lược miền Nam.
Ngay ngày 01-04-1975, Ủy ban Quân quản tỉnh
Thừa Thiên đã mời Ðức TGM Ðiền tham dự buổi mit-tinh để chào mừng ngày Huế giải
phóng. Ngài đã phát biểu theo tinh thần tích cực, vui mừng vì chiến tranh chấm
dứt tại một phần Ðất Nước. Sau đó Ngài đều cổ vũ mọi người vui sống theo tinh
thần lạc quan đó. Ngài phổ biến tập sách “Tôi Vui Sống” để hướng dẫn Dân Chúa sống
Phúc Âm trong hoàn cảnh mới một cách tích cực.
Ðể đề phòng việc có thể thiếu vắng Chủ
Chăn, Ngài dùng năng quyền đặc biệt, ngày 09-7-1975, tấn phong ngay Cha Têphanô
Nguyễn Như Thể làm TGM Phó với quyền kế vị.
(Cần nói rõ
thêm là trước đó, hơn 100 vị Linh mục đã rời Huế và miền Trung để lánh nạn Cộng
sản – vào Đô thành Saigon. Chỉ còn Ngài và 6 vị Linh mục khác ở lại bám trụ
cùng giáo dân – HQH).
Đến 02-09-75, Ngài xin đi Hà Nội để chào mừng
vị Hồng y Tiên khởi của Giáo Hội Công giáo Việt Nam: Ðức Hồng Y Giuse Maria Trịnh
Như Khuê, đồng thời để 2 vị Lãnh đạo gặp nhau lần đầu tiên. Trên đường đi, Ngài
thăm 2 Ðức Giám mục Giáo phận Vinh và Giáo phận Thanh Hóa. Tại Hà Nội, Ngài gặp
Ðức Giám mục Bắc Ninh, hiện nay là Ðức Hồng Y Giuse Maria Phạm Ðình Tụng. Ngài
lưu lại Tòa Tổng Giám mục gần 2 tuần, gặp Ðức TGM Phó Hà Nội, sau nầy là Hồng Y
Giuse Maria Trịnh Văn Căn, gặp Cha Phanxicô Xavie. Nguyễn Văn Sang, hiện nay là
Giám mục Thái Bình, Tổng Thư ký HÐGMVN, gặp Cha Tổng Ðại diện Lê Đắc Trọng, hiện
nay là GM Phụ tá Hà Nội, gặp cha Nguyễn Tùng Cương, về sau làm Giám mục Hải
Phòng, gặp Cha Đỗ Tông, hiện nay là Tổng Ðại Diện TGP Hà Nội, và nhiều linh mục
quan trọng khác. Chuyến đi miền Bắc nầy giúp Ngài thấy rất rõ CSVN đối xử thế
nào với các Tôn giáo tại VN và nhất là Giáo hội Công giáo VN. Về lại Huế, CSVN
yêu cầu Ngài viết và nói lại chuyến đi ấy, Ngài nhất mực từ chối. CSVN cũng mời
tôi, Linh mục Thư ký cùng đi với Ngài làm như thế, nhưng tôi cũng từ chối.
CSVN đàn áp các Tôn giáo càng ngày càng rõ
rệt, nhất là việc phân biệt đối xử các Tín hữu ghi rõ trong lý lịch mình là
“Công giáo”. Biết bao nhiêu sinh viên Công giáo không thể tốt nghiệp đại học,
bao nhiêu học sinh Công giáo không thể thi vào đại học, bao nhiêu nhân viên bị
mất việc làm chỉ vì mình là Công giáo. Việc bổ nhiệm, thuyên chuyển Linh mục
càng ngày càng khó khăn. Giữa năm 1975, Ngài phong chức được 2 linh mục, đầu
năm 1976, được 4 Linh mục và sau
sau, năm
1994, Ðức TGM Têphanô Nguyễn Như Thể mới phong chức được thêm 5 linh mục khác.
Từ một người rất sợ Cộng sản, nhưng trong Ðức
Tin và Ðức Ái, Ðức TGM Ðiền cố gắng sống cởi mở, hài hòa, tích cực. Tuy nhiên,
dần dần Ngài nhận thức rõ, CSVN thực sự muốn tiêu diệt các Tôn giáo mà nhất là
Công giáo. Năm 1977, nhân 2 cuộc họp do Ủy ban Mặt Trận Tổ Quốc Việt Nam
(UBMTTQVN) tổ chức, Ðức TGM Ðiền đã phát biểu 2 bài đòi Tự do Tôn giáo, trong
đó Ngài xác nhận, người Công giáo bị đối xử như “công dân hạng hai”. Tôi đánh
máy ra và phổ biến cho các Linh mục Gp Huế. Ít lâu sau, 2 bài nầy được in ra
khá nhiều ở Sài Gòn và báo chí nước ngoài đăng lại. Cuối tháng 08-1977, Linh mục
Hồ Văn Quý, Giám đốc Ðại chủng viện Huế và tôi bị bắt, các tòa án nhân dân của
các tổ chức quần chúng kết án chúng tôi 20 năm. Nhưng năm 1977, Việt Nam vừa nộp
đơn xin gia nhập Liên Hiệp Quốc, nên chiều 24-12-1977, hai chúng tôi được đột
ngột thả ra. CSVN buộc Ðức TGM Huế phải bổ nhiệm 2 anh em chúng tôi đi làm việc,
không cho ở Nhà Chung nữa, nhưng không được bổ nhiệm ở thành phố, giáo xứ lớn, ở
vùng núi, ở vùng biển; mà chỉ ở giáo xứ nhỏ vùng quê mà thôi. Ðầu tháng 7-1978,
Linh mục Augustinô Hồ Văn Quí đi Bố Liêu, Quảng Trị; còn tôi đi Ðốc Sơ, gần Tp
Huế.
Trước Giáng
Sinh 1979, CSVN dùng bạo lực cưỡng chiếm Tiểu chủng viện Hoan Thiện, đuổi 3
Linh mục đang dạy trong đó phải đi làm việc khác và hơn 80 chủng sinh phải về sống
với gia đình. Giáng Sinh năm đó, Ðức TGM Ðiền ra lệnh cho cả Giáo phận Huế phải
để tang cho đứa con yêu 149 tuổi nầy vừa bị giết. Ngài nói: “Chủng viện là con
mắt của Giám mục, nay tôi đã bị móc mắt rồi”. Cả Giáo phận rất đau lòng về việc
Tiểu chủng viện bị cưỡng chiếm.
Lúc bấy giờ,
CSVN không muốn giáo hữu đi hành hương kính Ðức Mẹ La Vang, ngăn chận xe khách
dọc đường, đuổi tất cả những ai muốn đi La Vang xuống. Nên việc hành hương kính
Ðức Mẹ La Vang rất khó khăn.
Cha Tôma Trần Văn Cầu, Quản xứ Trí Bưu phụ
trách Trung Tâm La Vang; về sau Cha Emmanuel Nguyễn Vinh Gioang, Quản xứ Diên
Sanh phụ trách La Vang, và tất cả các Linh mục vùng Quảng Trị đã phải kiên trì
đấu tranh bằng nhiều cách để có thể đưa giáo hữu đến La Vang. Dịp 15-08-1981,
phải hướng dẫn khách hành hương La Vang nhưng bị chận dọc đường, tôi phải đứng
tại chỗ hướng về La Vang mà nguyện kinh 4 lần 4 nơi khác nhau, mới có thể khai
thông tuyến đường được. Năm ấy, lần đầu tiên sau 1975, số người hành hương La
Vang lên đến 10 ngàn. Sau đó, CSVN kết án 5 chủng sinh từ 2 đến 4 năm tù và đuổi
5 chủng sinh khác về nhà vì “tội” diễn lại sáng kiến “đấu tranh” nói trên của
tôi.
Từ 1976, Ðức
TGM Huế không truyền chức linh mục được thêm cho một chủng sinh nào. Ðại chủng
viện Huế coi như bị đóng cửa với 1 Linh mục giám đốc duy nhất và mấy chục chủng
sinh chẳng biết tương lai thế nào.
Các Dòng tu
liên tiếp gặp rất nhiều khó khăn. Phải tu chui, khấn chui, một cách vô lý và đầy
ấm ức. Các giáo xứ “kinh tế mới” và vùng xa khó khăn lắm mới có một Thánh Lễ dịp
Giáng Sinh, Phục Sinh,…
Năm 1980, cùng với Ðức TGM Phó Têphanô Nguyễn
Như Thể, Ngài đi dự buổi họp đầu tiên của HÐGMVN tại Hà Nội. Khi về lại, cả 2 Vị
TGM đều rất buồn về Bức Thư Chung không được vừa ý, nhưng vì muốn bày tỏ tính
hiệp nhất của Giáo hội mà đành lòng ký chung. Thư Chung nầy, hầu như không có
Linh mục Gp Huế nào đọc chung trong Nhà Thờ cho giáo hữu nghe, chỉ trừ một Linh
mục duy nhất mà nay đã qua đời. Sau đó, Ngài được đi Rôma. Ðức Giáo Hoàng Gioan
Phaolô II đã gọi Ngài là “TGM anh dũng”, chia sẻ với Ngài công thức lừng danh để
sống trong chế độ cộng sản: “Cộng tác trong tình trạng luôn luôn đề kháng”
(collaborer en résistant).
Năm 1983,
CSVN kết án tôi 10 năm tù ở và 4 năm quản chế rồi đưa tôi ra Thanh Hóa. CSVN lại
bắt Linh mục Lê Thanh Hoàng, kết án 3 năm, nhưng phải ở 5 năm.
Đức TGM lặp
đi lặp lại nhiều lần, tại nhiều nơi: VN chưa có tự do tôn giáo thực sự. Nhiều lần,
Ngài viết thư cho Hội Ðồng Giám mục Việt Nam và Linh mục Nguyễn Thế Vịnh, Chủ tịch
Ủy Ban Ðoàn Kết Công Giáo (UBÐKCG) chứng minh rằng Giáo Hội Công giáo VN đang bị
bách hại thực sự; và GHCGVN đã có Hội Ðồng Giám mục VN là cơ quan chính thức để
điều hành sinh hoạt Giáo hội, liên lạc với Chính quyền Cộng sản, không cần có
thêm một Ủy ban nào hết. Nếu UBÐKCG hoạt động thì UB ấy cao hơn HÐGMVN, tạo nên
sự bất hợp lý trong Giáo hội. (Tại nhiều giáo phận, việc thuyên chuyển, bổ nhiệm
linh mục, việc du học và du lịch nước ngoài do UBÐKCG nầy lèo lái, sắp đặt).
Ngài viết: “Ai không đi qua cửa mà vào chuồng chiên, nhưng trèo qua lối khác mà
vào, người ấy là kẻ trộm, kẻ cướp” (Ga 10,1).
Ngài phải
tìm cách chuyển các tài liệu ấy ra nước ngoài. Vì thế, Ngài đã bị CSVN gây ra
bao nhiêu đau khổ. Rất tiếc, hiện nay tất cả các tài liệu nầy có lẽ đã bị một
Linh mục của Tòa TGM Huế thiêu hủy năm 1994 (đành phải giấu tên cho Linh mục ấy).
Khi đó, có một Nữ tu thấy và biết, khóc lóc xin đừng làm như thế, nhưng Linh mục
nầy vẫn không nghe, vì cho rằng những tài liệu ấy không phù hợp và có hại (?!).
Tôi chưa thể có đủ điều kiện kiểm chứng lúc nầy được. Hi vọng vẫn có ai đó trên
trái đất nầy còn cất giữ được.
Linh mục
Nguyễn Hữu Giải nhiệt tình chống đối việc thành lập UBÐKCG nên ngày 26-11-1983,
ngài bị bắt, bị ở trại tập trung đến cuối 1989 mới được thả, dù không có tội
gì. Nhiều Linh mục, Tu sĩ khác bị triệu tập làm việc rất căng thẳng. Ðức TGM Ðiền
càng đau buồn.
Rồi Lm Phêrô
Trần Văn Quí, Thư ký của Ngài cũng bị bắt và bị quản chế. Về sau bị cưỡng bức
đưa đi giáo xứ Buồng Tằm, một giáo xứ nhỏ tận thượng nguồn sông Hương, nhưng
Linh mục Quí phản đối và bỏ vào Sài Gòn học thêm tin học và ngoại ngữ. Năm
1995, Lm Quí được bổ nhiệm làm Quản xứ Phường Ðúc và Nguyệt Biều.
Ðức TGM Ðiền
đã nói một câu rất thời danh: “Đã có những Giám mục chịu chết vì bênh vực quyền
lợi của Hội Thánh. Nhưng ngày nay có Giám mục nào dám chịu chết để bênh vực quyền
lợi của con người không?”
* Ðức Cố TGM
Philipphê Nguyễn Kim Ðiền đã tử đạo thế nào?
…
Ðức TGM Ðiền
qua đời ngày 08-06-1988, lúc bấy giờ tôi đang ở trại giam Nam Hà, Hà Nam Ninh.
Khoảng 1 tuần sau đó, tôi chỉ biết tin Ngài qua đời qua nhật báo Nhân dân. Các
điện tín và các thư thân nhân (nay còn sống và tạm giấu tên) viết báo tin cho tôi
Ngài qua đời đều không đến tay tôi được.
Cuối năm 1992, tôi ra khỏi tù. Nghe nhiều
người bàn tán về cái chết “đầy bí ẩn” của Ðức TGM Ðiền và về các “ơn lạ” mà nhiều
người đã xin được nhờ cầu nguyện với Ngài. Tôi quì trước mộ Ngài cầu nguyện rất
lâu rằng:
“Nếu việc
làm sáng tỏ nguyên nhân cái chết của Ðức Tổng làm sáng danh Chúa và có lợi cho
Hội Thánh CGVN, thì xin Ðức Tổng cầu bầu cùng Chúa phù trợ cho con đủ điều kiện
làm xong việc quá khó khăn nầy”.
Sau đó, tôi bắt đầu âm thầm tiến hành điều
tra. Sau đây là kết quả bước đầu.
Kính xin mọi
người bổ sung đầy đủ hơn:
Cuối tháng 05-1988, Ngài xin vào điều trị tại
bệnh viện Nguyễn Trãi, sao cho tạm ổn định để có thể đi Rôma. Ngài rất nôn nóng
đi Rôma để báo cáo về Ðức TGM Phó mà Ngài định đặt, về Ðức GM Phụ tá Giacôbê Lê
Văn Mẫn mà Ngài đã tấn phong “bí mật” và về GHCGVN, về GP Huế. Có 2 bác sĩ quen
săn sóc, 1 bác sĩ ở đường Sương Nguyệt Anh, gần Nhà thờ Chợ Ðũi và một bác sĩ bạn
của bác sĩ nầy. Theo họ, Ðức TGM bị ung thư đường tiểu, không thể chữa.
Ngài có bị
nhổ 2 răng: 1 răng vàng và một răng khôn, có đem 2 răng ấy đến 42 Tú Xương nhờ
em ruột của Nha sĩ Phạm Thị Thân khám. Ở phòng khám răng nầy có cô y tá tên
Nguyễn Thị Kim Anh, 12 Trương Quốc Dung, Phường 10, Quận Phú Nhuận, Ðt
08.8350482 – 08.8449472, quen biết cô Bích Hồng, Thị Nghè, thuộc Tu hội Trợ Tá
Tông Ðồ, người săn sóc Ðức Tổng vào những giờ cuối. Hai Lm Stanilaô Nguyễn Ðức
Vệ và Gioakim Lê Thanh Hoàng đi theo Ðức TGM Ðiền để săn sóc Ngài biết cô Hồng
nầy.
Chẳng biết
có sự gợi ý của CSVN hay không, nhưng cho dù có, thì cũng chỉ vì chân tình và
ngay tình, có hai Ðức Giám mục (tạm thời xin giấu tên) thăm Ngài hai lần khác
nhau tại bệnh viện Nguyễn Trãi, khuyên Ngài xin vào bệnh viện Chợ Rẫy để có thể
xét nghiệm làm hồ sơ xin đi nước ngoài chữa bệnh, vì theo hai Ðức Giám mục nầy
cho biết, trên nguyên tắc Chính quyền CSVN đã đồng ý. Hai Ðức GM nầy còn cam
đoan là CSVN không đến nỗi dùng thủ đoạn gì đâu (?!). Ngài nghe lời và xin chuyển
qua bệnh viện Chợ Rẫy đầu tháng 06-1988, mục đích là để được khám nghiệm trước
khi lên máy bay đi Rôma. Tại đây, các bác sĩ cho rằng bệnh Ngài quá nặng, không
chữa được. Có một lần, Ngài đau đớn quá, Ngài bấm chuông gọi 2 Cha Vệ – Hoàng
đưa Ngài về, vì không chữa được, nhưng sau đó, có một điện tín báo: Nhà Nước đã
cho đi chữa bệnh nước ngoài, giấy tờ đã xong. Tòa Thánh đã bằng lòng tài trợ mọi
phí tổn. Ngài rất mừng, vui, ăn hết một tô xúp, nhưng bí tiểu.
CSVN từ Huế
đã vào Sài Gòn theo dõi Ngài sít sao và tham gia chỉ đạo các kế hoạch. Tôi có
thể nêu tên của một sĩ quan công an CS lo việc nầy hiện nay đang công tác tại
Huế.
Sáng
6-6-1988, cả 2 Linh mục Huế: Vệ và Hoàng theo chăm sóc Ngài đều vắng mặt. Ngài
có người em ruột là Nguyễn Thị Thủy, Nữ tu Dòng Mến Thánh Giá Chợ Quán (quen gọi
là Dì Sáu) thường trực bên cạnh Ngài rất chu đáo, cẩn thận, không để Ngài uống
thuốc gì mà không kiểm tra chặt chẽ. Nhiều Nữ tu Huế cũng xin được vinh dự chia
sẻ gánh nặng túc trực chăm sóc Ngài. Sáng hôm đó, Nữ tu Nguyễn Thị Quí, Dòng
Con Ðức Mẹ Vô Nhiễm Huế, xin phép thay Nữ tu Thủy để được săn sóc Ngài. Bà Thủy
không chịu, hai người giằng co nhau, nên Ðức Tổng nói: “Thôi em để cho người ta
săn sóc một lát, em về nghỉ ngơi đôi chút”.
Lợi dụng chỗ sơ hở nầy, khoảng từ 10 đến 11g
ngày 06-06-1986, một cô y tá đến trao cho Ngài một nắm thuốc. Ngài hỏi cô y tá:
“Cô cho tôi uống thuốc gì vậy?”.
Cô trả lời rất
cộc cằn lỗ mãng: “Nhiệm vụ của ông là phải uống những gì chúng tôi điều trị
ông, không được hỏi lôi thôi gì cả”. Ngài rất phân vân.
Cuối cùng
Ngài bằng lòng uống. Uống xong, Ngài cảm thấy rất đau đớn.
Ngài hỏi cô y tá: “Cô biết tôi mấy giờ nữa
thì chết không?”.
Cô y tá ấy hốt hoảng và run sợ trả lời: “Con
lạy cụ, xin cụ tha lỗi cho con! Việc nầy là do cấp trên.”
Ðức Tổng trả lời: “Không những tôi tha lỗi cho
cô mà thôi, tôi còn tha thứ cho cả cấp trên sai cô làm. Tôi tha thứ hết”.
Sau đó, thấy dì Sáu vào, Ngài nói với Dì Sáu:
“Chén đắng Chúa trao anh đã uống xong.
Xin trọn theo ý Chúa”. Dì Sáu báo cho cô y tá biết
Ngài đau đớn lắm.
Khoảng 12g30 trưa, cô y tá ấy trở lại cho Ngài uống một
liều thuốc khác.
Sau đó Ngài bị
tiêu chảy liên tục cho đến chết, không cầm lại được. Các nhân chứng hiện nay đều
còn sống, một số Nữ tu cần tạm giấu tên một thời gian.
Khoảng 13g ngày 8-6-1988, Ngài bấm chuông gọi cấp cứu,
nhưng không có ai đến cả. Vài phút sau, Ngài qua đời tại phòng Ngài nằm điều trị
bệnh.
Phòng nầy nay
đã thay đổi số (lúc đó, người thân không ai nhớ số phòng), chỉ nhớ ở tầng lầu
thứ 9, bệnh viện Chợ Rẫy, Sài Gòn. Lúc ấy chỉ có Dì Sáu bên cạnh.
Vì vụ việc có nhiều ám muội (lúc Ðức TGM Ðiền qua đời
xong, môi miệng Ngài tím bầm, 2 tay cũng tím thẫm), nên có một nữ tu kín đáo
theo dõi cô y tá vừa cho Ngài uống thuốc, đã đi theo cô và nghe được câu nói rất
quan trọng nầy của cô khi cô gọi điện thoại cho cấp trên: “Vụ việc đã hoàn
thành”. Nữ tu ấy nay còn sống ở Huế.
Vì thân nhân muốn đưa xác ra Huế, bệnh viện đã mổ lấy
bộ ruột của Ngài.
Bộ ruột nát bầy nhầy khác thường. Một bác sĩ tên Bình,
bệnh viện Chợ Rẫy, trao nó cho thân nhân và đề nghị không nên đưa về nhà nữa.
Lúc đó, các thân nhân quá đau lòng, không ai còn bình tĩnh để nhận lãnh cả.
Bệnh viện đã đem chôn bộ ruột, nay chưa tìm ra dấu vết.
Thật là đáng tiếc!
Sau đó, cô y tá ấy thanh minh rằng cô không biết Vị mà
cô cho uống thuốc là ai, và cô đã xin lỗi thân nhân. Cô được gửi đi du học ngay
tại Cộng Hòa Dân Chủ Ðức (Ðông Ðức) và theo thời hạn là sẽ trở về Việt Nam
tháng 3-1995. Không rõ nay đang ở đâu.
* Xác Đức TGM được đưa về Tòa TGM Sài Gòn.
Tin tức về cái chết của Ngài bị bưng bít hoàn toàn. Tất
cả các đường điện thoại gọi ra Huế đều bị cắt. Lúc bấy giờ chưa có Fax, chưa có
E-mail. Nội bộ Giáo hội chẳng ai có điện thoại di động. Và tất cả các điện tín
khẩn gửi ra Huế đều không được trao ngay (người ta chỉ mang đến cho Tòa TGM Huế
cả một chồng dày sau khi Ngài đã được an táng). Cho đến nỗi, Giáo phận Huế đã
thành lập một phái đoàn vào Sài Gòn gồm tất cả các Linh mục Quản hạt để thăm viếng
và tiễn đưa Ðức Tổng đi Rôma. Ðau đớn thay, khi phái đoàn ấy lên xe tại Huế
sáng 09-8-1988 để đi thăm Ngài thì thực ra Ngài đã chết hôm trước rồi mà vẫn
chưa ai biết ! Khi phái đoàn Gp Huế vào đến Tòa TGM Sài Gòn, hỏi Ðức Tổng Huế ở
đâu, thì có nhân viên chỉ 1 phòng. Gp Huế tưởng gặp Ðức Tổng còn sống, không ngờ
nhân viên chỉ phòng đang quàn xác Ngài! Các linh mục tại Huế thì chỉ biết tin
nhờ Radio Veritas, Philippin. Sau đó mới tổ chức để đưa xác Ngài về Huế.
Nhà Nước gây rất nhiều trở ngại để việc đưa xác Ngài về
Huế bị chậm lại. Dầu vậy, giáo dân GP Huế quá thương tiếc Ngài đã đón tiếp xác
Ngài rất trọng thể. Có công an kín đáo tháp tùng bám sát, có nhân viên của CSVN
quay phim đầy đủ.
Xác Ngài được liệm trong hòm bọc kẽm, phần trên có lồng
kính để thấy được mặt. Môi ngài tím bầm, mũi trương sình bong bóng máu, làm cho
giáo dân hết sức thắc mắc. Mặc dù đã được điểm trang kỹ lưỡng, nhưng môi Ngài vẫn
tím bầm! Ðoàn xe tang chở thi hài Ðức Tổng Giám mục về Toà Giám Mục Huế lúc
21g30 ngày 13-06-1988, và sáng 14-06-1988 được đưa lên an vị tại Nhà Thờ Chính
Tòa Phủ Cam để tín hữu và quan khách kính viếng Ngài suốt ngày đêm. Tối
14-06-1988, vì mặt Ngài biến dạng khác thường, nên ban tẩm liệm đã đậy nắp hòm
gỗ che mặt Ngài lại.
Sáng 15-6-1988, Thánh lễ Ðồng tế an táng trọng thể đã
được Ðức TGM Phaolô Nguyễn Văn Bình, TGM Sài Gòn chủ sự cùng với hầu hết các
Giám mục trong HÐGMVN, rất đông Linh mục các Giáo phận của 3 Giáo tỉnh và của
Giáo phận Huế. Vì số giáo hữu quá đông, nên mãi đến tối 15-06-1988 mới hạ huyệt
được, rồi ban tẩm liệm đã khoan 5 lỗ quanh hòm kẽm để xác dễ phân hủy và an
táng Ngài tại phía trái Cung Thánh Nhà Thờ Phủ Cam.
Linh mục Phaolô Nguyễn Kim Bính, Hạt trưởng Thành phố
Huế, Chánh sở Nhà Thờ Chính Tòa Phủ Cam, trang hoàng mộ Ngài rất lộng lẫy như mộ
một Vị Thánh Tử Ðạo. Sau đó, phái đoàn Tòa Thánh thăm Nhà Thờ Phủ Cam, thấy vậy
có ý kiến rằng: không nên đi trước ý kiến của Tòa Thánh, nên Lm Kim Bính đã
trang hoàng đơn giản như hiện nay: phần mộ sát với nền Nhà Thờ, bên trên có một
tấm đá cẩm thạch đen, có khắc vài dòng về Ngài.
Dì Sáu, em ruột Ngài là Nữ tu Mến Thánh Giá Chợ Quán,
118 Trần Bình Trọng, Q. 5, Sài Gòn, Đt: 08.8350482. Nay ở Nhà Hưu dưỡng Dòng
MTG Chợ Quán, 30/1 ấp Truông Tre, xã Linh Xuân, Thủ Ðức, Sài Gòn, Ðt
08.8964116.
Còn cô y tá đã cho Ngài uống thuốc là nhân viên cũ của
Nữ bác sĩ Dương Quỳnh Hoa, hôn thê của Bs Trần Văn Thọ, 117 Cách mạng 1-11 cũ,
nay là 1 cơ quan Nhà nước. Cô có làm việc cho Bs Nguyễn Văn Thọ, 99 Võ Tánh, gần
cổng xe lửa số 6, đối diện với Nhà thờ Cơ Ðốc Phục Lâm. Cô có 1 người bạn Công
giáo, đã trọ học ở 40/5 Ngô Tùng Châu, Gia Ðịnh, đối diện với phòng mạch Bs
Hoàng Văn Ðức, khoa trưởng Y khoa Minh Ðức. Lm Ðỗ Quang Biên, dạy trường Trí Ðức
do Lm Nguyễn Văn Ngà làm hiệu trưởng, Lm Nguyễn Văn Hòa (nay là GM Nha Trang và
đã được bổ nhiệm TGM Phó Hà Nội) làm hiệu phó, biết anh nầy. Anh hiện ở Ðà Lạt.
* KẾT LUẬN:
Liều thuốc Ngài bị buộc uống sáng 6-6-1988 là liều thuốc
độc. Liều thuốc Ngài bị uống sau trưa ngày 6-6-1988 là liều thuốc xổ để giúp tẩy
bớt các dấu vết chất độc trong ruột, tạo nên cơn tiêu chảy cho đến ngày
8-6-1988 mà bệnh viện cố tình không cho cầm lại, mặc dù Chợ Rẫy là một bệnh viện
lớn nhất nhì ở Sài Gòn.
Bộ ruột nát bầy
nhầy khác thường; miệng Ngài tím bầm, hai bàn tay Ngài cũng bị bầm tím, 2 hốc mắt
trái và phải đều bị tím bầm và có 2 bong bóng máu đen sẫm rất lớn tại 2 lỗ mũi,
vỡ rồi lại hiện, làm gương mặt Ngài biến dị khác thường, khiến tối 14-6-1988 một
giáo hữu trong ban tẩm liệm (nay còn sống, nhưng tạm giấu tên) phải xin Lm Nguyễn
Kim Bính cho phép đậy nắp hòm gỗ bên ngoài hòm kẽm, không để khách đến viếng thấy
mặt Ngài nữa, vì quá đau lòng và khó nhìn.
Kèm theo những
diễn biến chung quanh việc Ngài bị buộc uống thuốc sáng 06-06-1988 nói trên,
các điều nầy không phải là những bằng chứng Ngài đã thực sự bị đầu độc sao?
Sau đám tang Ðức TGM Ðiền, Công an tỉnh Bình Trị Thiên
đến tận trại giam Bình Ðiền, Thừa Thiên, gặp Linh mục Phêrô Nguyễn Hữu Giải
nguyên một buổi sáng, kể lại cái chết và đám tang Ngài, thanh minh về việc CSVN
không hề đầu độc Ngài và dặn: “Khi được tự do, anh đừng có tin lời đồn ấy”. Sau
đó, Cán bộ Giáo dục trại giam lại gặp Lm Giải thêm một buổi thanh minh rằng Ðức
TGM Ðiền không hề bị trúng độc, khuyên nên biết giải thích lại cho dân. Năm
1989, khi thả Lm Giải ra khỏi tù, CSVN lại nói với Lm Giải rằng: “CQ không đầu
độc TGM Ðiền”. Tại sao CSVN lại phải mất công thanh minh nhiều lần vất vả như
thế và tại sao lại tự buột miệng phải thanh minh một điều không ai chất vấn cả?
Trong Tuyên
ngôn 24-11-1994, tôi ghi rõ: “Ðức TGM Ðiền đã khổ vì đạo và đã chết vì đạo”, mà
CSVN trong suốt 5 tuần làm việc liên tiếp, không hề dám đả động gì đến chuyện ấy.
Vì sự thực là thế!
Chắc chắn một điều: cho dù chưa đưa ra được bằng chứng
khoa học 100% rằng Ngài đã bị cho uống thuốc độc đi nữa, vì một đàng bộ ruột
Ngài chưa tìm được, một đàng việc khai quật mộ Ðức Cố TGM Ðiền lên là điều chưa
thật sự cần thiết phải làm trong lúc nầy, thì việc Ngài suốt 13 năm liên tiếp
chịu khổ vì Giáo hội từ 1975 đến khi chết (1988), cũng đủ cho mọi người thành
tâm ngay thẳng xác nhận Ngài ÐÃ CHẾT VÌ ÐẠO rồi.
Ngày
26-12-2000, Lễ Thánh Têphanô Tử Ðạo tiên khởi, tôi đã nằm sấp trên mộ Ngài,
khóc rất nhiều và cầu nguyện thiết tha khá lâu giờ, xin Ngài phù trợ cho công
việc đấu tranh tự do tôn giáo của một nhóm linh mục Huế và tôi được thành công
theo ý Chúa. Tôi xin Ngài cầu bàu cùng Chúa cho tôi một dấu chỉ từ trời trong
ngày hôm đó. Và tôi đã được nhận lời mau lẹ ngay sáng hôm đó.
Hiện nay, hằng ngày vẫn có giáo hữu thường xuyên đến
kính viếng, quỳ cầu nguyện trước mộ Ngài. Ðối với đa số Tín hữu Gp Huế, Ðức cố
TGM Ðiền là một Vị Thánh Tử Ðạo.
Trong Sổ Tang của Ðức Cố TGM Ðiền tại Nhà xứ Chính Tòa
Phủ Cam, rất nhiều người viết những câu rất ý nghĩa. Ðặc biệt là ngay khi ra khỏi
tù, trước khi thăm viếng bất cứ ai, trước hết, Lm Nguyễn Hữu Giải đã đến kính
viếng mộ Ðức TGM Ðiền, và ghi vào Sổ Tang nầy:
“Xin Chúa cho chúng con được duy trì mãi phong cách
Philipphê Nguyễn Kim Ðiền”.
Lm Tađêô Nguyễn Văn Lý, Quản Xứ An Truyền
(30-01-2001)
Bức ảnh ấn tượng nhất trước lãnh sự quán Hoa Kỳ tại Sydney trong cuộc biểu tình 21/05/2016 do CĐNVTD/NSW tổ chức
đồng bào Sydney yểm trợ cho đồng bào quốc nội chống bọn bán nuớc cộng sản..........!^^