MN: theo tin cuả thông tín viên MN từ Houston...............!
Đất nước mình ngộ quá phải không anh?
Trả lời cô giáo Trần Thị Lam
Luật sư Đào Tăng Dực
“…Với
sự dập tắt tuyệt đối ý thức hệ giáo điều Mác Lê, với sự cáo chung của
đảng CSVN như một định chế thoái hóa và lỗi thời, hằng triệu triệu đóa
hoa tư tưởng tuyệt vời sẽ vươn lên từ lòng văn hóa hơn 4000 năm của dân
tộc…”
I. Dẫn Nhập:
Bài
thơ của cô giáo Trần Thị Lam được cho là bài thơ gây chấn động trên
mạng lưới toàn cầu và có tiềm năng làm rung chuyển chế độ. Công an CSVN
đã phải câu lưu và thẩm vấn cô, nhưng chưa dám truy tố hình sự vì sợ hãi
phản ứng của nhân dân và công luận thế giớiDân
tộc Việt có một nền văn hóa sâu dày hơn 4000 năm lịch sử trong đó tiềm
tàng những tình tự đậm đà và tư tưởng uyên thâm, giúp dân tộc vượt qua
những cơn ba đào của lịch sử.
Mặc dầu suốt 7 thập niên liên tục, người CSVN đã ra sức hủy diệt nền văn hóa này và thay thế trước hết bằng ý thức hệ giáo điều Mác Lê duy vật (Marxist dogmatic ideological materialism) và sau đó bằng chủ nghĩa duy lợi trần truồng (naked utilitarianism), nhưng những cố gắng của họ chỉ là vô vọng.
Những dòng nhạc của thế hệ trẻ như Việt Khang và nhất là bài thơ “Đất nước mình ngộ quá phải không anh?” của cô giáo Trần Thị Lam
chứng minh hùng hồn rằng, nền văn hóa ngàn đời của dân tộc vẫn luân lưu
mạnh mẽ trong tâm thức của toàn dân và khi mùa xuân dân chủ khởi động,
thì vươn lên như những đóa hoa sen, từ chốn bùn nhơ nhớp xã hội chủ
nghĩa, đem lại hương thơm và tô điểm sắc màu cho tiến trình dân chủ hóa
đất nước.
Tuy
nhiên, bài thơ đầy cảm xúc này không những khẳng định tình trạng tồn
vong mong manh và nghiêm trọng của đất nước mà còn nêu ra những vấn nạn
cần giải đáp. Trước khi thảo luận vấn đề và đưa ra giải đáp, chúng ta
lắng lòng thưởng thức bài thơ như sau:
ĐẤT NƯỚC MÌNH NGỘ QUÁ PHẢI KHÔNG ANH?
Đất nước mình ngộ quá phải không anh?
Bốn ngàn tuổi mà dân không chịu lớn
Bốn ngàn tuổi mà vẫn còn bú mớm
Trước những bất công vẫn không biết kêu đòi...
Đất nước mình lạ quá phải không anh?
Những chiếc bánh chưng vô cùng kì vĩ
Những dự án và tượng đài nghìn tỉ
Sinh mạng con người chỉ như cái móng tay...
Đất nước mình buồn quá phải không anh?
Biển bạc, rừng xanh, cánh đồng lúa biếc
Rừng đã hết và biển thì đang chết
Những con thuyền nằm nhớ sóng khơi xa...
Đất nước mình thương quá phải không anh?
Mỗi đứa trẻ sinh ra đã gánh nợ nần ông cha để lại
Di sản cho mai sau có gì để cháu con ta trang trải
Đứng trước năm châu mà không phải cúi đầu...
Đất nước mình rồi sẽ về đâu anh?
Anh không biết em làm sao biết được
Câu hỏi gửi trời xanh, gửi người sau, người trước
Ai trả lời dùm đất nước sẽ về đâu...
II. Phân Tích:
Khi chúng ta phân tích bài thơ này, chúng ta sẽ có những nhận định như sau:
Bốn
chương đầu trên hình thức là những câu hỏi, nhưng một cách mặc thị
(implicit) là những khẳng định (affirmations) về tình trạng bi thương
của đất nước dưới chế độ CSVN.
Chẳng
hạn tuy có 4 ngàn năm văn hiến mà vẫn cam chịu nhục nhằn trước bất công
từ bạo quyền, những tượng đài tôn sùng cá nhân hoang phí trong khi
khinh bỉ mạng người, guồng máy thống trị tham ô và vô trách nhiệm đưa
đến cái chết thê thảm của môi trường thiên nhiên, và nợ công chồng chất
ngập đầu các thế hệ hiện tại lẫn tương lai.
Chương cuối cùng chỉ có 4 câu thơ nhưng hàm chứa 2 câu hỏi quan trọng:
1. Một câu hỏi mặc thị (implicit): Lý do vì đâu đất nước nên nông nỗi này?
2. Câu hỏi minh thị (explicit): Đất nước rồi sẽ về đâu anh?
Sau cùng thi sĩ tha thiết kêu gọi “Ai trả lời dùm đất nước sẽ về đâu?”
Như một người công dân có trách nhiệm, tôi xin đáp ứng lời kêu gọi ấy và trả lời như sau.
III. Giải thích nguyên nhân:
Theo quan điểm của tôi, nguyên nhân gây ra tai họa cho đất nước rất nhiều, nhưng tựu trung có 2 tai họa lớn lao nhất:
Một là ngọn gió độc giáo điều ý thức hệ (ideological dogmatism) và
Hai là hiện tượng quái thú định chế hóa cực đoan (extreme institutionalization).
Đây
là những ý niệm tương đối trừu tượng, nhưng thảm họa chúng gây ra cho
dân tộc vô cùng hiện thực và chúng ta cần tìm hiểu (investigate), nhận
diện (identify) và dứt khoát loại bỏ ra khỏi nền văn hóa, tâm thức và
hiến pháp của dân tộc trong tương lai.
1. Ý thức hệ giáo điều:
Trước
hết khái niệm “giáo điều ý thức hệ” (ideological dogmatism), hoặc “ý
thức hệ giáo điều” (dogmatic ideology) không đơn giản và nhiều người, kể
cả tôi, đã tốn nhiều giấy mực để viết về khái niệm này. Tuy nhiên,
trong phạm vi hôm nay, tôi xin mạn phép đơn giản hóa, dùng văn xuôi và
một số hình ảnh vẽ lên một bức tranh ý niệm hầu chuyên chở đến độc giả.
Nếu chúng ta coi dân tộc Việt Nam như một thực tại thì chúng ta có thể mườn tượng thực tại đó như một dòng sông tư tưởng và tình tự (a river of thoughts and feelings) luân
lưu từ thủa bình minh của lịch sử cho đến bây giờ và vươn tới tương
lai. Đó là một thực tại vô cùng sinh động bao gồm 2 yếu tính. Một là
“hằng” và hai là “chuyển”. “Hằng” là có một bản sắc riêng biệt bất biến
làm cho chúng ta nhận diện rõ đây là dân tộc Việt chứ không phải một dân
tộc khác. “Chuyển” là luôn thay đổi, từng phút, từng giây, như ý nghĩa
chuyển dịch của dịch lý hay trong thuyết tiến hóa của Darwin.
Những
tư tưởng và tình tự trong dòng sông thực tại có thể ví như các loài
thủy tộc, các giọt nước li ti, các loài thủy sản , rong rêu và muôn
triệu vi sinh nương tựa vào dòng sông để sinh tồn và hài hòa phát triển.
Thế nào là ý thức hệ giáo điều?
Ý
thức hệ giáo điều có thể được định nghĩa như một cấu trúc trí năng (an
intellectual construct) giam hãm tư tưởng con người vào một khung sườn
cố định và tước đi sự sống cũng như tính sáng tạo của tư tưởng tự do.
Lịch sử loài người đã từng trải qua rất nhiều ý thức hệ giáo điều, nhưng
hiện đại nhất của nhân loại ngày hôm nay là các ý thức hệ Mác- Lê và
Hồi Giáo Cực Đoan.
Các
ý thức hệ giáo điều này có thể ví như những cơn lạnh cực kỳ lớn lao,
trùm lên dòng sông thực tại của những dân tộc dưới vòng kiềm tỏa của
chúng, biến toàn thể dòng sông và những sự sống trong dòng sông thành
băng tuyết. Tuy dưới mắt của một đệ tam nhân, hình ảnh của dòng sông,
các loài thủy tộc và thủy sản vẫn còn, nhưng dòng sông đã mất sự sống
chân thực.
Các xã hội dưới sự khống chế của các ý thức hệ giáo điều như Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam hôm nay đều bi đát như thế.
2. Thế nào là “tiến trình định chế hóa cực đoan”?
Vì
tính trọng yếu của ý niệm này, cá nhân tôi đã viết khá nhiều về nó. Tuy
nhiên trong phạm vị của bài này, tôi xin tóm lược như sau:
Định
chế hóa cực đoan là một tiến trình xã hội học, có công năng biến một tổ
chức bình thường thuộc nhà nước (the state) hoặc xã hội dân sự (civil
society), trở thành một con quái thú, có khả năng khống chế và ăn tươi nuốt sống cả nhà nước lẫn xã hội dân sự.
Tính
hỗ tương giữa các ý thức hệ và các định chế cực đoan vô cùng chặc chẽ
vì lý do đơn giản là một hệ tư tưởng luôn cần một cấu trúc có tổ chức để
quảng bá và thực thi quan điểm của mình. Hệ tư tưởng càng giáo điều thì
tổ chức càng dễ trở thành nạn nhân của tiến trình định chế hóa cực
đoan.Hậu
quả là những định chế thuộc xã hội dân sự (những chính đảng như các
đảng cộng sản, những định chế tôn giáo...) hoặc thuộc nhà nước như (quân
đội hoặc cảnh sát công an...) đều có thể và đã trở thành mồi ngon của
tiến trình định chế hóa cực đoan, nắm quyền lực độc tài, trở nên những
ông ngáo ộp thực sự, ăn tươi nuốt sống không thương tiếc những công dân
cá thể trong xã hội dân sự, và đập vỡ tan tành lý tưởng dân chủ. Những
chính thể cộng sản toàn trị và độc tài Hồi Giáo cực đoan đến từ các định
chế thuộc xã hội dân sự, trong khi các chế độ quân phiệt hoặc công an
trị đến từ các định chế nhà nước.
Khi một tổ chức đã trở thành nạn nhân của tiến trình định chế hóa cực đoan thì sẽ phát sinh các đường nét nổi bật sau đây:
a.
Tổ chức sẽ mất đi mục đích ban đầu mới thành lập và mục tiêu duy nhất
bây giờ là trường tồn mãi mãi bất chấp lẽ sống nguyên thủy của nó
b. Tổ chức sẽ truy tìm và bám víu quyền lực độc tôn
c. Tổ chức sẽ tận diệt tất cả mọi thực thể cạnh tranh với mình trong hiện tại hoặc trong tương lai mà không hề thương tiếc.
Đảng
CSVN cũng như tất cả các đảng cộng sản từ Âu sang Á, từ trước đến giờ,
cùng với các đảng Đức Quốc Xã và Phát Xít độc tài, đều là những con quái
thú, hậu quả của tiến trình định chế hóa cực đoan và ăn tươi nuốt sống
nhà nước lẫn xã hội dân sự.
Nhân
dân Việt Nam bất hạnh lớn lao vì hoàn cảnh lịch sử đã biến dân tộc
thành nạn nhân gần một thế kỷ của cơn lạnh vĩ đại ý thức hệ giáo điều
Mác Lê và con quái thú định chế cực đoan mà đảng CSVN là hiện thân trung
thực.
IV. Phương pháp luận:
Câu hỏi chúng ta phải trả lời là:
Làm thế nào để hóa giải ý thức hệ giáo điều Mác Lê và vô hịệu hóa con quái thú đảng CSVN như một định chế?
1. Làm sao hóa giải ý thức hệ giáo điều Mác Lê:
Muốn hóa giải ý thức hệ này, chúng ta cần một quan điểm đấu tranh nghiêm chỉnh?
Theo
thiển ý của tôi, đó là một quan điểm chính trị bao gồm 3 yếu tố then
chốt của các nền dân chủ đương đại. Đó là quan điểm dân chủ hiến định,
pháp trị và đa nguyên.
Một
quan điểm đấu tranh nghiêm chỉnh có thể ví như một mặt trời dân chủ,
mang các yếu tính ấm áp, ôn hòa sưởi ấm lại dòng sông. Mặt trời dân chủ
sẽ làm tan băng giá, hồi sinh các loài thủy tộc và thủy sản. Nhất là mặt
trời dân chủ sẽ không bao giờ biến thành một ngọn lửa hận thù cực lớn,
đun sôi cả dòng sông, giết chết các loài thủy tộc và những sự sống khác,
trong cơn cuồng say cách mạng.
Chính
vì thế, một quan điểm đấu tranh nghiêm chỉnh luôn hàm chứa yếu tố bao
dung và tránh mọi khuynh hướng cực đoan. Theo quan điểm của tôi, mọi
người Việt Nam, bất kể quan điểm chính trị, kể cả người cộng sản, trong
lịch sử cân kim của dân tộc, đều là nạn nhân của lịch sử và của những
xung đột ý thức hệ phát xuất từ đầu óc méo mó của các tư tưởng gia
phương Tây, không liên hệ gì đến nền văn hóa truyền thống của Việt Tộc
cả.
Một
quan điểm đấu tranh nghiêm chỉnh sẽ như một mặt trời ấm áp, ôn hòa, bao
dung, soi sáng và sưởi ấm cho dòng sông thực tại, bình đẳng và không
phân biệt.
Một
chân lý chúng ta cần khắc ghi là, tất cả mọi lý thuyết của trí năng,
mọi hệ thống tư tưởng hoặc ý thức hệ, dù cao siêu và phức tạp bao nhiêu,
cũng có lúc phải diệt vong vì không còn phù hợp với thực tại khách
quan.
Tuy
nhiên những điều vô cùng đơn giản mà các tôn giáo lớn chủ trương như từ
bi và trí tuệ của nhà Phật, hoặc lòng bác ái và vị tha của Thiên Chúa
Giáo, sẽ trường tồn với thời gian.
Các
chính quyền căn cứ trên Ý Thức Hệ Mác- Lê và Hồi Giáo Cực Đoan đã và sẽ
bị hủy diệt vì chỉ biết chủ trương sắt máu và hận thù.
Một quan điểm đấu tranh nghiêm chỉnh vì thế cũng phải học hỏi từ các tôn giáo lớn của nhân loại.
Mặt
trời dân chủ không phải chỉ có công năng xây dựng những định chế chính
trị phục vụ cho con người cá thể và một trật tự xã hội tốt đẹp hơn, mà
cũng phải là mặt trời của từ bi, trí tuệ, bác ái vị tha và bình đẳng
không phân biệt.
2. Làm sao kiểm soát hoặc giới hạn tiến trình định chế hóa?
Như
thế, tiến trình định chế hóa, đặc biệt định chế hóa cực đoan, nhất là
khi lấy nguồn cảm hứng từ một ý thức hệ quá khích, khơi mào cho những
nguy hiểm tột cùng đối với con người cá thể và lý tưởng dân chủ.Chúng ta
có thể làm gì để kiểm soát tiến trình này?
Trước hết chúng ta phải tìm hiểu các nguyên nhân của tiến trình định chế hóa.
Theo nhận xét của tôi, các nguyên nhân là:
1. Sự hiện hữu của một cấu trúc quyền lực tập trung
2. Sự hiện hữu và hoặc hứa hẹn các quyền lợi vật chất
3. Sự hiện hữu và hoặc hứa hẹn các quyền lợi tinh thần
4. Sự vắng bóng một hệ thống kiểm soát và đối trọng.
Tôi
mạn phép nêu danh một vài tổ chức đã kinh qua tiến trình định chế hóa
cực đoan như những giai cấp quan lại Nho Giáo ngày xưa tại Trung Quốc,
Đại Hàn, Nhật Bản và Việt Nam như những định chế tối cao, thống trị nhà
nước và xã hội dân sự và đôi khi chính các quân vương chí tôn cũng phải
kiêng nể; những đảng cộng sản Liên Xô cũ, Bắc Hàn hiện nay, Trung Quốc
và Việt Nam dưới ảnh hưởng của ý niệm tập trung dân chủ của Lê Nin; Ủy
Ban Hiền Tài (Assembly of experts) của giới lãnh đạo tại Iran dưới quyền
một Siêu Lãnh Tụ nhân danh Thượng Đế chân chính và duy nhất; Nhà Nước
Hồi Giáo ISIL dưới sự lãnh đạo của một Đấng Quyền Uy Tối Cao (Supreme
Khalif) đại diện cho Thiên Chúa trên trái đất và toàn thể nhân loại phải
quy phục; Giới quân phiệt tại Miến Điện và Thái Lan dưới sự điều hướng
của các tướng lãnh với một cấu trúc lãnh đạo quân sự tập trung; và đây
chỉ là một số tiêu biểu.
Tuy
nhiên, tự cổ chí kim, không có hiện tượng định chế hóa nào khủng khiếp
bằng hệ thống giai cấp của Ấn Độ Giáo, giam hãm tâm linh con người vào
những khung sườn giai cấp cứng nhắc, khởi đầu từ kiếp này nhưng vươn tới
các kiếp sau, từ hiện thực đến những cấp bực siêu hình, gieo rắc muôn
vàn thống khổ, bất công, làm tàn phế dân tộc Ấn Độ, vốn dĩ là một dân
tộc vĩ đại, suốt nhiều ngàn năm cho đến bây giờ.
Hầu
giới hạn hoặc kiểm soát tiến trình định chế hóa cực đoan các tổ chức
trong nhà nước và xã hội dân sự, những biện pháp sau đây cần phải được
nhân dân áp dụng:
i. Nếu có thể, mọi cấu trúc quyền lực nên phân quyền. Nhận xét tổng
quát của tôi là các định chế tôn giáo và những cấu trúc quyền lực độc
tài dễ bị định chế hóa hơn các các cấu trúc quyền lực thế tục và dân
chủ. Trong trường hợp quân đội và cảnh sát, thì mọi sĩ quan đều phải thề
trung thành với các chính quyền dân sự do dân bầu lên và bộ luật hình
sự sẽ khắc ghi những hình phạt nặng nhất cho tội lật đổ một chính quyền
được dân bầu lên một cách dân chủ.
ii. Nếu có thể, nên có sự công nhận nguyên tắc kiểm soát và đối trọng
(Checks and balances) hầu một tổ chức luôn có nhiều thực thể cạnh tranh
và không bao giờ nắm giữ quyền lực hay ảnh hưởng tuyệt đối trong bất cứ
một phương diện nào. Một sự cân bằng đúng mức giữa nhà nước và xã hội
dân sự sẽ có lợi đến mức độ là các tổ chức trong xã hội dân sự sẽ giám
sát sự thi hành trách nhiệm của các cơ chế chính quyền (một tổ chức
truyền thông tư nhân phê bình một cấp bộ của chính quyền) hoặc một cơ
quan chính phủ phán xét về những khiếu nại từ khách hàng của một thực
thể thương nghiệp lớn (chẳng hạn như một giám sát viên ngân hàng) là
những ví dụ bình thường.
iii. Tuy nhiên một trong những phương thức đầy tiềm năng nhất hầu kiểm
soát tiến trình định chế hóa cực đoan, theo quan điểm của tôi, là bảo
đảm rằng hệ thống dân chủ của chúng ta phải tuyệt đối đa nguyên.
iv. Sau cùng, chúng ta phải tranh đấu để được công nhận trong hiến pháp
vị trí của các công dân cá thể như là cứu cánh tối thượng và chung
quyết của mọi quá trình xã hội và chính trị. Cả xã hội dân sự lẫn nhà
nước, kể cả những tổ chức và định chế liên hệ, cũng chỉ là những công cụ
phục vụ cho công dân cá thể. Tương quan giữa hai thực thể là tương quan
giữa những chủ nhân (công dân cá thể) và kẻ phục vụ (xã hội dân sự, nhà
nước và mọi định chế liên hệ) và khi một định chế (bất kể bản chất hoặc
vị thế kể cả những định chế tôn giáo thánh thiện nhất) không còn khả
năng phục vụ cho công dân cá thể, định chế đó phải bị triệt tiêu và
không còn hiện hữu.
Lý
do đơn giản bởi vì tất cả mọi định chế chỉ là những ý niệm trừu tương
hoặc những sáng tạo của trí năng con người. Chúng cùng một đẳng cấp
nhưng không cao đẹp bằng những ý niệm trừu tượng khác như quốc gia, tổ
quốc, lòng yêu nước hay nhân loại. Chúng không hiện hữu bên ngoài tâm
thức con người và như thế chúng không thể ưu thắng những công dân cá
thể. Họ là những con người bằng xương bằng thịt, có thể cảm thấy hạnh
phúc hoặc khổ đau, có thể sở hữu tài sản hoặc bị tước đoạt tài sản, có
thể cảm nhận lòng từ bi, bác ái, cái đẹp, sự hận thù và nhục nhằn và
toàn bộ những tình cảm nhân sinh. Các nhà độc tài rất thiện nghệ trong
nghệ thuật dương cao ngọn cờ các ý niệm trừu tượng, như đảng CSVN, lý
tưởng con người quân tử của giai cấp Khổng Mạnh, Đế Chế thứ ba của Đức
Quốc Xã, lòng yêu nước, vân vân và vân vân, và đòi hỏi sự hy sinh vô
điều kiện và vâng lời tuyệt đối từ các công dân cá thể. Tác động công
nhận trong hiến pháp vị trí tối thượng của công dân cá thể sẽ vô hiệu
hóa tất cả mọi âm mưu thống trị những công dân cá thể này.
V.Kết luận:
Nếu
chúng ta hóa giải cơn lạnh ý thức hệ giáo điều, nhổ răng và móng vuốt
của quái thú định chế hóa cực đoan, thì với bàn tay và khối óc được tôi
luyện qua chiều dài nhiều thiên niên kỷ, dân tộc Việt sẽ hồi sinh.
Với
sự dập tắt tuyệt đối ý thức hệ giáo điều Mác Lê, với sự cáo chung của
đảng CSVN như một định chế thoái hóa và lỗi thời, hằng triệu triệu đóa
hoa tư tưởng tuyệt vời sẽ vươn lên từ lòng văn hóa hơn 4000 năm của dân
tộc và đất nước chúng ta chắc chắn sẽ đạt được nhanh chóng chiều cao
thực sự của mình, trong cộng đồng nhân loại văn minh.
Luật sư Đào Tăng Dực