Dieses Blog durchsuchen

Dienstag, 6. Januar 2015

Xuân Về

MN Xuân sắp đến MN gởi đến các bạn những bài hát tuyệt vời,thơ mộng ,dể thuơng cuả Sài Gòn năm xưa ,những mùa Xuân tuơi đẹp ,thơ mộng mơ màng xưa củ và mong rằng nó sẽ trở lại với chúng ta muôn đời..vạn kiếp .như 89.99 triệu dân Việt chúng ta hắng mong đợi,không còn bóng dáng của lũ ngu xuẫn,man rợ,gian ác tay sai cuả giặc tàu : cộng sản Bắc Việt   !! :))






Hai Vì Sao lạc-Anh việt Thu -Hoàng Oanh-pps avi

MN: pps avi một bài hát rất tình cảm ,nhẹ nhàng và trong sáng cuả nhạc sỹ Anh việt Thu ,Hoàng Oanh ca và ..rất nhiều bông !! :)





Hai vì sao lạc-Anh Việt Thu


Người về, một mùa thu gió heo may

Về đâu có nhớ chăng những vì sao long lanh

đưa tiễn người một đêm không trăng

Nói sao nên lời

lòng buồn như chiều rơi

Như trong đêm khuya những buớc chân qua thềm

Gợi niềm thương nhớ vô vàn

Người về, đường đi kết gió trăng sao

Người đi có biết chăng trong chiều nay bơ vơ

Nghe lá thu vàng rơi bâng khuâng

Bước chân ai về chừng thời gian ngừng trôi

Như quên đêm khuya

để gió xuôi theo màu thầm làm ướt áo vai gầy

Người về chiều mưa hay nắng

Sao để khói lam chiều như se chùng màu không gian

Người về giòng sông thương nhớ

để bến vắng con đò buồn mong người người hay chăng?

Người là vì sao nhỏ bé

Ta mãi ước cho lòng làm bầu trời xanh xanh

Người về lòng ta thương nhớ

Ta khẽ hỏi đưa người hay thầm người đưa ta

Người về người về đâu nhớ ta chăng

Người ơi mỗi lá thu rơi làm ta bâng khuâng

Như áng mây chiều lam trong sương

Bước đi âm thầm lòng buồn như chiều rơi

Nghe chăng thu ơi để lá rơi chi hoài

Gợi lòng thương nhớ ai nhiều...

Bắc Kinh (Beijing) thủ đô cuả Mãn châu (Machuria)-Phần 2

MN: Sau khi Mông cổ bị nông dân Tàu nổi dậy thành công , thì Trung hoa trải qua 24 triều đại cuả nguời Hán cho đến khi Nurhachi kết hợp đuợc các bộ tộc khác cuả Mãn Châu và trở nên mạnh, hùng cuờng đẫt tên nuớc là Quing- Mãn Thanh  ,sau khi Nurhachi mất duới thời Li Ziechen 1644 quân đội cuả Mãn Châu tấn công Trung hoa và chiém đóng Bác Kinh (Beijing) thành lập nhà Mãn Thanh và chỉ trong vài năm chiếm đóng toàn bộ nuớc Tàu (ba tàu) ,họ trục xuất tất cả bọn Tàu khỏi vùng Bắc Kinh và hông bao giờ tin tụi Tàu (chỉ có lũ ngu xuẫn Cộng sản Hà Nội mới tin chúng )
 Họ xây dưng thể chế mới cho Trung Hoa,Tiếng Mãn châu là tiếng chính thức trong chính phủ và toàn bộ lãnh thổTrung hoa!
Mãn Thanh cai trị ,đô hộ Tàu từ năm : 1644 đến 1911 : 267 năm
Mông Cổ cai trị đô hộ Tàu từ năm:      1279 đến 1368:   89 năm !!
MN đưa đọan video này cho thấy bọn Tàu bị 2 nuớc thời đó đô hộ mà cả hai nuớc đó Mông cổ và Mãn Thanh đều bị Việt nam đánh bại ! cho thấy bọn Tàu là lũ chết nhác và đê hèn trong khi bọn cộng sản Bắc việt như tên Lý Thụy ,Nguyễn văn đồng ,Võ Nguyên Giáp và toàn bộ cái đãng ngu dốt cuả chúng tôn thờ ,qùy lạy chúng để xin ân huệ ,coi bọn Tàu như, ánh sáng ,chân lý soi đuờng cho chúng ,nói chung là coi bọn Tàu phù ,dơ dáy bẫn thỉu như.. ông nội cuả chúng !!chúng chưa từng đọc Đại Việt Sử ký hay sao ,lũ mù !!??? 


MN: các bạn có thể theo dõi Bách Khoa Toàn thư (Wikipedia) duới đây bằng 3 thứ tiếng Anh ,Đức và Việt ngữ !!

Manchu people
From Wikipedia, the free encyclopedia
"Manchu" redirects here. For other uses, see
Manchu
ᠮᠠᠨᠵᡠ
Vị vua cuối cùng cuả nhà Mãn Thanh Puji







Lao She


The Manchu [note 1] (Manchu: ᠮᠠᠨᠵᡠ;Möllendorff: manju; simplified Chinese: 满族; traditional Chinese: 滿族; pinyin: Mǎnzú; Wade–Giles: Man3-tsu2) are a Chinese ethnic minority and the people from whom Manchuria derives its name.[11] They are sometimes called "red-tasseled Manchus" (Manchu: ᡶᡠᠯᡤᡳᠶᠠᠨ ᠰᠣᡵᠰᠣᠨ ᠮᠠᠨᠵᡠ;Möllendorff: fulgiyan sorson manju; 红缨满洲), a reference to the ornamentation on traditional Manchu hats.[12][13]
Manchus form the largest branch of the Tungusic people and are distributed throughout China, forming the fourth largest ethnic group in that country.[1] They can be found in 31 Chinese provincial regions. They also form the largest minority group in China without an autonomous region. Among them, Liaoning has the largest population and Hebei, Heilongjiang, Jilin, Inner Mongolia and Beijing has over 100,000 Manchu residents. About half of the population live in Liaoning province and one-fifth in Hebei province. There are a number of Manchu autonomous counties in China, such as Xinbin, Xiuyan, Qinglong, Fengning, Yitong, Qingyuan, Weichang, Kuancheng, Benxi, Kuandian, Huanren, Fengcheng, Beizhen[note 2] and over 300 Manchu towns and townships.[15]
History


Origins and early history
Further information: Sushen, Mogher and Jurchen people
the location of Jurchen tribes at the end of Ming dynasty
The Manchus are descended from the Jurchen people who earlier established the Jin dynasty (1115–1234) in China[16][17][18] but as early as the semi-mythological chronicles of the Three Sovereigns and Five Emperors there is mention of the Sushen,[19][20][21][22] a Tungusic people from the northern Manchurian region of North East Asia, who paid bows and arrows as tribute to Shun[23] and later to Zhou.[24] The Sushen used flint headed wooden arrows, farmed, hunted, and fished, and lived in caves and trees.[25] The cognates Sushen or Jichen (稷真) again appear in the Shan Hai Jing and Book of Wei during the dynastic era referring to Tungusic Mohe tribes of the far Northeast.[26] The Mohe enjoyed eating pork, practiced pig farming extensively, and were mainly sedentary,[27] and also used both pig and dog skins for coats. They were predominantly farmers and grew soybean, wheat, millet, and rice, in addition to engaging in hunting.[28]
In the 10th century CE, the term Jurchen first appeared in documents of the late Tang dynasty in reference to the ethnically Goguryeo state of Balhae.[citation needed]
Following the fall of Balhae, the Jurchens became vassals of the Liao dynasty. The Koreans had been beaten into submission to the Jurchens by the Jurchen leader Wu-ya-shu,[29] who secured the Jurchen-Korean border.[30] In the year of 1114, Wanyan Aguda united the Jurchen tribes and established the Jin dynasty.[31] His brother and successor, Wanyan Wuqimai defeated the Liao dynasty. After the fall of Liao, the Jurchens went to war with the Northern Song, and captured most of northern China in the Jin–Song wars.[32] During the Jin dynasty, the first Jurchen scripts came into use in the 1120s. It was mainly derived from Khitan script.[31] The Jurchens extorted gifts and rewards from the Korean Kingdom Goryeo by militarily threatening them.[33]
The Jurchens were sedentary,[34][35] settled farmers with advanced agriculture. They farmed grain and millet as their cereal crops, grew flax and raised oxen, pigs, sheep, and horses.[36] Their farming way of life was very different from the pastoral nomadism of the Mongols and the Khitan on the steppes.[37][38] "At the most", the Jurchen could only be described as "semi-nomadic" while the majority of them were sedentary.[33]
In 1206, the Mongols who were vassals to Jurchens rose in Mongolia. Their leader, Genghis Khan, led the Mongol troops to fight against Jurchens. The Jin dynasty could not withstand the Mongols' attack and was finally defeated by Ögedei Khan in 1234.[39] Under the Mongols' control, the Jurchens were mainly divided into two groups and treated differently: the ones who were born and raised in North China and fluent in Chinese were considered to be Chinese (Han); but the people who were born and raised in the Jurchen homeland (Manchuria) without Chinese-speaking abilities were treated as Mongols politically.[40] From that time, the Jurchens of North China increasingly merged with the Han Chinese, while those living in their homeland started to be Mongolized.[41] They adopted Mongolian customs, names[note 3] and the Mongolian language. As time went on, fewer and fewer Jurchens could recognize their own script.
The Mongol domination of China was replaced by the Ming dynasty in 1368. In 1387, the Ming defeated the Nahacu's Mongol resisting forces who settled in Haixi area[42] and began to summon the Jurchen tribes to pay tribute[43] At the time, some Jurchen clans were vassals to the Joseon dynasty of Korea such as Odoli and Huligai.[44] Their elites served in the Korean royal bodyguard.[45] The Joseon Koreans tried to deal with the military threat that the Jurchen posed to them by using both forceful means and incentives, by launching military attacks on the Jurchens. At the same time they tried to appease them with titles and degrees, trading with them, and seeking to acculturate them by having Korean women marry Jurchens and integrating them into Korean culture. Despite these measures, fighting continued between the Jurchen and the Koreans.[46][47] Their relationship was discontinued by Ming, because Ming was planning to make Jurchens a means of protecting the border. Korea had to allow this as it was in Ming's tribute system.[45] In 1403, Ahacu, chieftain of Huligai, paid tribute to Yongle Emperor of Ming. Soon after that, Möngke Temür, chieftain of Odoli clan of the Jianzhou Jurchens, defected from paying tribute to Korea, becoming a tributary to China instead. Yi Seong-gye, the Taejo of Joseon asked Ming to send Möngke Temür back but he refused.[48] The Ming Yongle Emperor was determined to wrest the Jurchens out of Korean influence and have China dominate them instead.[49] Korea tried to persuade Möngke Temür to reject the Ming overtures, but was unsuccessful since Möngke Temür submitted to the Ming.[50][51][52][53] Since then, more and more Jurchen tribes presented tribute to Ming in succession.[43] They were divided in 384 guards by Ming,[45] and the Jurchen became vassals to the Ming.[54] The Ming dynasty name for the Jurchen land was Nurgan. The Jurchens became part of the Ming dynasty's Nurgan Regional Military Commission under the Yongle Emperor, with Ming forces erecting the Yongning Temple Stele in 1413 at the headquarters of Nurgan. The stele was inscribed in Chinese, Jurchen, Mongolan, and Tibetan.
In 1449, Mongol taishi Esen assaulted the Ming dynasty and captured Zhengtong Emperor in Tumu. Some Jurchen guards in Jianzhou and Haixi cooperated with Esen's action,[55] but more were attacked by the Mongol invasion. Many Jurchen chieftains lost their hereditary certificates granted by the Ming.[56] They had to present tribute as secretariats (书舍人) with less reward from the Ming court than in the time when they were heads of guards - an unpopular development.[57] Subsequently, more and more Jurchens recognised Ming's declining power due to Esen's invasion. Zhengtong Emperor's capture directly caused Jurchen guards to go out of control.[58] Tribal leaders publicly plundered Ming's area, such as Cungšan[note 4] and Wang Gao. At about this time, the Jurchen script was officially abandoned.[60] More Jurchens adopted Mongolian as their writing language and fewer used Chinese.[61]
The Manchu way of life (economy) was described as agricultural, farming crops and raising animals on farms.[62] Manchus practiced slash-and-burn agriculture in the areas north of Shenyang.[63] The Haixi Jurchens were "semi-agricultural, the Jianzhou Jurchens and Maolian (毛怜) Jurchens were sedentary, while hunting and fishing was the way of life of the "Wild Jurchens".[64] Han Chinese society resembled that of the sedentary Jianzhou and Maolian, who were farmers.[65] Hunting, archery on horseback, horsemanship, livestock raising, and sedentary agriculture were all practiced by the Jianzhou Jurchens as part of their culture.[66] In spite of the fact that the Manchus practiced archery on horse back and equestrianism, the Manchu's immediate progenitors practiced sedentary agriculture.[67]

MandschuEin Mandschu in traditioneller Kleidung
Die Mandschu (auch: Mandschuren; Mandschurisch: Manju; chinesisch 滿洲族 / 满洲族, Pinyin Mǎnzhōu zú, meistens aber abgekürzt nur chinesisch 滿族 / 满族, Pinyin Mǎnzú) sind ein Volk in der Mandschurei im Nordosten Chinas und nach den Zhuang die zweitgrößte der 55 anerkannten ethnischen Minderheiten Chinas. Von den knapp 11 Millionen Angehörigen der Gruppe sprechen die meisten Chinesisch in dem jeweiligen Dialekt ihrer Wohnorte, also vor allem den Nordostdialekt. Nur noch einige Dutzend alte Menschen beherrschen die mandschurische Sprache, die damit so gut wie ausgestorben ist. Das verwandte Xibenisch, das im autonomen Kreis Qapqal der Xibe in Xinjiang noch gesprochen wird, ist jedoch tatsächlich ein Dialekt des Mandschurischen.

Demographie und Autonomie
Bei der Volkszählung im Jahre 2010 wurden 10.387.958 Mandschu gezählt. Ihre Bevölkerung verteilte sich (nach den 1990er Daten) folgendermaßen: 50,43 % der Mandschu leben in Liaoning, 17,6 % in Hebei, 12,06 % in Heilongjiang, 10,67 % in Jilin, 4,65 % im autonomen Gebiet Innere Mongolei und 1,68 % in Beijing.
In der Provinz Liaoning beträgt der Anteil der Mandschu 13% der Bevölkerung, die für sie eingerichteten sechs autonomen Kreise (Benxi, Huanren, Kuandian, Qingyuan, Xinbin und Xiuyan) umfassen über 17% der Fläche dieser Provinz.
In der Provinz Hebei beträgt der Anteil der Mandschu 3,2% der Bevölkerung, ihre vier autonomen Kreise (Fengning, Kuancheng, Qinglong und Weichang) machen 12,3% der Provinzfläche aus.
In der Provinz Jilin beträgt der Anteil der Mandschu 4%, ihr autonomer Kreis Yitong macht 1,3% der Fläche aus.
In der Provinz Heilongjiang machen die Mandschu knapp 3% der Bevölkerung aus und verfügen über keinen autonomen Kreis; allerdings gibt es zahlreiche Nationalitätengemeinden der Mandschu, so z.B. Sijiazi, Nongfeng und Kunhe.

Herkunft
Die Mandschu stammen von den Jurchen ab, die im 12. Jahrhundert Nordostchina eroberten. Der Name „Mandschu“ wurde 1635 offiziell von Huang Taiji (皇太极), der den Jianzhou-Jurchen angehörte, eingeführt. Er dürfte allerdings schon ab 1605 benutzt worden sein. Nurhacis Sohn Huang Taiji entschied sich, den Namen „Mandschu“ zu verwenden, und verbot die Benutzung des Namens „Jurchen“. Die ursprüngliche Bedeutung des Begriffes steht zwar nicht fest, es wird jedoch vermutet, dass es ein altes Wort für die Jianzhou-Jurchen war. Nach einer anderen Theorie stammt der Begriff von dem Bodhisattva Manjusri (das „Bodhisattva der Weisheit“), dessen Menschwerdung Nurhaci zu sein behauptete. Vor dem 17. Jahrhundert waren die Vorfahren der Mandschu ein ländliches Volk, das sich durch Jagen, Fischerei und teilweise Landwirtschaft ernährte.



Geschichte




Ein Mandschu in traditioneller Kriegerpose

Späte Jin-Dynastie Im Jahre 1616 errichtete der Mandschu-Anführer Nurhaci die Späte Jin-Dynastie und den Staat Amaga Aisin Gurun, oder kurz Manju Gurun („Staat der Mandschu“) und vereinigte die Mandschu-Stämme. Auf diese Zeit geht auch die Schaffung des Militärsystems der Acht Banner zurück. Nach dem Tod Nurhacis änderte sein Sohn Huang Taiji den Namen der Dynastie in Qing.


Qing-Dynastie


Adlige Mandschu-Damen um 1900
Als Li Zicheng 1644 Peking eroberte, griff die Qing-Armee das chinesische Gebiet jenseits der Großen Mauer an und machte Peking nach Mukden (seit der Zeit der Streitenden Reiche eine chinesische Stadt) zur neuen Hauptstadt. Sie eroberten binnen weniger Jahre das gesamte Territorium der Ming-Dynastie.
In der Qing-Dynastie wurden alle wichtigen Ämter des Reiches mit jeweils einem han-chinesischen und mandschurischen Mitglied besetzt, wodurch ein recht großer Anteil der Mandschu, deren Anzahl insgesamt vergleichsweise gering war, Regierungsbeamte waren.
Assimilierung
Während der Qing-Dynastie versuchte die Regierung die mandschurische Kultur und Sprache zu erhalten. Diese Versuche waren langfristig nicht sehr erfolgreich, weil sich die Mandschu immer mehr den Bräuchen der Han-Chinesen anpassten und auch deren Sprache nach und nach übernahmen. Bereits im 18. Jahrhundert wurde selbst am Kaiserhof nur noch selten Mandschurisch gesprochen. In den 1880er Jahren berichtete der Sprachforscher Paul Georg von Möllendorff, die Sprache sei am Hof mündlich nur noch als feststehende Kommandos bei Zeremonien in Gebrauch. Die Mandschurische Schrift wurde aber bis zum Zerfall der Dynastie neben dem Chinesischen weiterhin als Schriftsprache für offizielle Dokumente und die Kommunikation zwischen dem Kaiser und den Banneroffizieren verwendet.
Auf der anderen Seite hat auch die mandschurische die han-chinesische Kultur in großem Ausmaß beeinflusst. Große Gruppen von Han-Chinesen, die so genannten Han-Bannerleute, wurden in einem gegenläufigen Prozess seit dem 17. Jahrhundert mandschurisiert. Viele Dinge, die heute als typisch für die nordchinesische Kultur angesehen werden, sind tatsächlich mandschurischen Ursprungs und Ergebnis einer umgekehrten Assimilierung.
Obwohl sich – in der Hauptsache – die Mandschu an die Han-Kultur assimilierten und sich selbst immer als „Chinesen“ (im Sinne von Angehörigen des Reiches der Mitte) begriffen, wurden sie gegen Ende der Qing-Dynastie von chinesischen Nationalisten als „ausländische“ Kolonialmacht dargestellt. Diese Darstellung verschwand aber schnell, weil das neue republikanische China nach der Revolution von 1911 die Mandschu in eine neue, republikanische „nationale Identität“ hineinkonstruierte.
Mandschukuo
1931 errichteten die Japaner im Nordosten Chinas einen als Mandschukuo (jap. Manshū koku 満州国; chin. Mǎnzhōuguó 满洲国) bezeichneten Marionettenstaat. Zu dieser Zeit war das Gebiet bereits überwiegend von Han-Chinesen bewohnt und selbst unter den Mandschu konnte dieses Projekt nicht viel Interesse erwecken.
Vermutlich wurde ein „mandschurischer“ Staat nur deswegen errichtet, um eine Sezession zu rechtfertigen und damit nicht nur China, sondern auch den seit 1890 starken Einfluss Russlands in der Region weiter zu schwächen und eine Invasion Chinas vorzubereiten.
Nach dem Zweiten Weltkrieg wurde das Territorium wieder ein Teil Chinas.

Mãn Châu đô hộ Trung Hoa(Ba Tàu)-khoảng 300 năm !Bài chi tiết: Nỗ Nhĩ Cáp XíchHoàng Thái Cực




Cờ nhà Thanh, 1862-1890


Nhà Thanh là một triều đại do người Mãn Châu thành lập, một dân tộc thiểu số ở một số nước Đông Á hiện nay. Vốn là những người du mục bán khai, người Mãn Châu dần chiếm ưu thế tại vùng hiện ở phía đông nam Nga. Quốc gia Mãn Châu được Nỗ Nhĩ Cáp Xích (Nurhaci) thành lập vào đầu thế kỷ 17. Ban đầu chỉ là một nước chư hầu của nhà Minh, ông tự tuyên bố mình là hoàng đế của nước Hậu Kim năm 1609. Cùng năm ấy, ông phát triển các nguồn tài nguyên kinh tế, con người của đất nước cũng như kỹ thuật bằng cách thu nhận những người Hán sống tại vùng Mãn Châu.


Năm 1625, Nỗ Nhĩ Cáp Xích lập thủ đô tại Thẩm Dương (tiếng Mãn Châu: Mukden), nhưng năm sau ông phải chịu một thất bại quân sự lớn đầu tiên trước một vị tướng nhà Minh là Viên Sùng Hoán. Nỗ Nhĩ Cáp Xích chết năm đó. Một trong những thành tựu lớn nhất của ông là việc tạo lập hệ thống Bát Kỳ, theo đó mọi người dân Mãn Châu đều thuộc một trong tám "Kỳ", đó vừa là các đơn vị dân sự vừa mang tính chất quân sự. Các Kỳ được đặt tên như vậy bởi vì mỗi nhóm được phân biệt bởi một lá cờ khác nhau.


Người kế tục Nỗ Nhĩ Cáp Xích, Hoàng Thái Cực (Huang Taiji), tiếp tục tiến hành công việc dựa trên các nền móng được người cha để lại, sáp nhập các kỳ của người Hán đầu tiên vào quân đội của mình. Hoàng Thái Cực cũng chấp nhận việc áp dụng nhiều cơ cấu chính trị kiểu nhà Minh vào đất nước mình, nhưng luôn giữ ưu thế của người Mãn Châu trong các cơ cấu đó thông qua một hệ thống định mức phân bổ. Khi Lâm Đan Hãn (Ligdan Khan), vị đại hãn cuối cùng của người Mông Cổ, chết trên đường tới Tây Tạng năm 1634, con trai ông Ngạch Triết (Ejei) đã đầu hàng người Mãn Châu và trao lại ấn ngọc truyền quốc của Hoàng đế Nguyên cho Hoàng Thái Cực.


Năm 1636 Hoàng Thái Cực đổi tên nước thành Thanh, có nghĩa là thanh khiết, biểu hiện những tham vọng đối với vùng Mãn Châu. Cái tên Thanh được lựa chọn bởi vì tên của nhà Minh (明) được cấu thành từ các ký hiệu của chữ nhật (日, mặt trời) và nguyệt (月, Mặt Trăng), đều liên quan tới hỏa mệnh. Chữ Thanh (清) được cấu thành từ chữ căn bản là thuỷ (水, nước) và từ chỉ màu xanh (青), cả hai đều là mệnh thuỷ. Trong một loạt những chiến dịch quân sự, Hoàng Thái Cực đã khuất phục được vùng Nội MôngTriều Tiên trước khi tiếp tục chiếm quyền kiểm soát vùng Hắc Long Giang.


Tuyên bố Thiên mệnh


Bắc Kinh đã bị một liên minh những lực lượng nổi loạn do Lý Tự Thành cầm đầu vào cướp phá. Nhà Minh chính thức kết thúc khi Minh Tư Tông (Sùng Trinh Đế) Chu Do Kiệm, vị Hoàng đế cuối cùng của nhà Minh treo cổ tự tử tại Môi Sơn cạnh Tử Cấm Thành. Sau khi chiếm Bắc Kinh vào tháng 4 năm 1644, Lý Tự Thành dẫn đầu một đội quân mạnh gồm 600.000 người chiến đấu với Ngô Tam Quế, vị tướng chỉ huy lực lượng đồn trú 100.000 lính bảo vệ Sơn Hải Quan (山海關) của nhà Minh.


Sơn Hải Quan là cửa ải có vị trí trọng yếu ở phía đông bắc Vạn lý trường thành cách Bắc Kinh năm mươi dặm về phía đông bắc và trong nhiều năm lực lượng đồn trú tại đây luôn phải chiến đấu ngăn chặn người Mãn Châu bên ngoài thủ đô Bắc Kinh. Sau khi Lý Tự Thành chiếm được Bắc Kinh, giết cha và cướp thiếp của Ngô Tam Quế, Ngô Tam Quế đã quyết định đánh mở cổng thành đầu hàng nhà Thanh, liên minh với hoàng tử Đa Nhĩ Cổn, khi ấy đang làm nhiếp chính cho Hoàng đế Thuận Trị mới lên sáu, con trai của Hoàng Thái Cực mới chết năm trước.


Liên minh này đánh bại các lực lượng nổi loạn của Lý Tự Thành trong trận chiến ngày 27 tháng 5, 1644. Quá trình tiêu diệt các lực lượng trung thành với nhà Minh, những kẻ nhòm ngó ngôi báu và những kẻ phiến loạn khác kéo dài thêm mười bảy năm nữa. Vị vua cuối cùng của nhà Minh, Vĩnh Lịch, chạy trốn tới Miến Điện, tức Myanma hiện nay, nhưng bị bắt và giao lại cho lực lượng viễn chinh của nhà Thanh do Ngô Tam Quế cầm đầu. Vĩnh Lịch bị hành quyết tại tỉnh Vân Nam đầu năm 1662.


Khang Hi và sự củng cố quyền lực



Hoàng đế Khang Hi (khoảng 1662 - 1722)


Hoàng đế Khang Hi (khoảng 1662 - 1722) lên ngôi khi mới tám tuổi. Trong những năm cầm quyền đầu tiên ông được bà của mình là Thái hoàng thái hậu Hiếu Trang giữ quyền nhiếp chính trợ giúp rất nhiều.


Người Mãn Châu nhận ra rằng việc kiểm soát "Thiên mệnh" là một nhiệm vụ hết sức to lớn. Sự rộng lớn của lãnh thổ Mãn Châu đồng nghĩa với việc triều đình chỉ có đủ quân đội để đồn trú tại những thành phố chính và xương sống của mạng lưới phòng ngự dựa chủ yếu vào những người lính nhà Minh đã đầu hàng.


Hơn nữa, các tướng lĩnh nhà Minh đã đầu hàng trước đó cũng được lựa chọn theo mức độ đóng góp vào việc thành lập nhà Thanh, được phong tước trở thành các lãnh chúa phong kiến (藩王- phiên vương), và được quyền cai quản những vùng đất rộng lớn ở phía nam Trung Quốc. Người đứng đầu số đó là Ngô Tam Quế (吳三桂), được trao các tỉnh Vân Nam và Quý Châu, trong khi các vị tướng khác như Thượng Khả Hỉ (尚可喜) và Cảnh Trọng Minh (耿仲明) được giao cai quản các tỉnh Quảng ĐôngPhúc Kiến. Ba người này được người Trung Quốc gọi chung bằng cái tên Tam Phiên.


Sau một thời gian, ba vị lãnh chúa này và những vùng đất đai của họ cai quản dần trở thành hình thức tự trị. Cuối cùng, vào năm 1673, Thượng Khả Hỉ thỉnh cầu Khang Hi, bày tỏ ước vọng muốn được trở về quê hương tại tỉnh Liêu Đông (遼東) và chỉ định con trai làm người kế nhiệm. Vị hoàng đế trẻ cho phép ông ta về nghỉ nhưng từ chối trao chức vụ cho người con trai. Trước sự kiện đó, hai vị tướng kia cũng quyết định xin về hưu để thử phản ứng của Khang Hi, cho rằng ông ta sẽ không dám liều xúc phạm đến họ. Hành động này mang lại kết quả trái ngược với mong đợi của họ khi vị hoàng đế trẻ tuổi lừa phỉnh họ bằng cách chấp nhận các yêu cầu và đoạt lại ba vùng đất đó cho triều đình.


Thấy mình bị tước đoạt quyền lực, Ngô Tam Quế cho rằng ông ta không còn lựa chọn nào khác ngoài cách làm loạn. Ngô Tam Quế cùng Cảnh Trọng Minh và con trai Thượng Khả Hỉ là Thượng Chi Tín (尚之信) thành lập liên minh. Cuộc nổi dậy diễn ra sau đó kéo dài tám năm. Ở thời phát triển mạnh nhất, lực lượng nổi dậy đã tìm cách mở rộng tầm kiểm soát của mình về hướng bắc tới tận sông Trường Giang (長江). Dù vậy, cuối cùng triều đình nhà Thanh tiêu diệt được cuộc nổi dậy và kiểm soát được toàn bộ miền nam Trung Quốc. Trong lịch sử Trung Quốc, sự kiện này được gọi là Loạn Tam Phiên.


Để củng cố đế chế, Khang Hi đích thân chỉ huy một loạt các chiến dịch quân sự tấn công Tây Tạng, người Dzungars; và sau này, ông đánh cả Đế quốc Nga, nhưng phần lớn bị Pyotr I tấn công dữ dội cho tới chân thành Bắc Kinh. Ông dàn xếp một cuộc hôn nhân giữa con gái mình với vị Hãn Mông Cổ là Gordhun (Chuẩn Cát Nhĩ) nhằm tránh một cuộc xung đột quân sự. Các chiến dịch quân sự của Gordhun chống lại nhà Thanh đã chấm dứt, giúp tăng cường sức mạnh đế chế. Đài Loan cũng bị các lực lượng nhà Thanh chinh phục năm 1683 từ tay con trai của Trịnh KinhTrịnh Khắc Sảng (鄭克塽,) (cháu nội Trịnh Thành Công, người đã đoạt lại quyền kiểm soát Đài Loan từ tay thực dân Hà Lan). Tới cuối thế kỷ 17, Trung Quốc đạt tới đỉnh cao quyền lực của mình kể từ thời nhà Minh.


Khang Hi cũng cho phép nhiều nhà truyền giáo thuộc các Giáo hội Thiên chúa tới Trung Quốc để truyền đạo. Dù họ không đạt được mục đích cải đạo cho đa số dân Trung Quốc, Khang Hi vẫn cho họ sống yên ổn tại Bắc Kinh.


Các hoàng đế Ung Chính và Càn Long




Bình của người hành hương, sứ cảnh lam. Nhà Thanh, giai đoạn Càn Long thế kỷ 18.


Hai giai đoạn trị vì của Hoàng đế Ung Chính (trị vì 1723 - 1735) và con trai ông Hoàng đế Càn Long (trị vì 1735 - 1796) đánh dấu đỉnh cao phát triển quyền lực nhà Thanh. Trong giai đoạn này, nhà Thanh cai quản 13 triệu kilômét vuông lãnh thổ. Sau khi Khang Hi qua đời vào mùa đông năm 1722, con trai thứ tư của ông là Ung Thân vương (雍親王) Dận Chân lên nối ngôi trở thành Hoàng đế Ung Chính. Ung Chính là một nhân vật gây nhiều tranh cãi bởi vì có những lời đồn đại về việc ông cướp ngôi, và trong những năm cuối cùng thời Khang Hi ông đã tham gia vào nhiều cuộc tranh giành quyền lực chính trị với các anh em của mình.


Ung Chính là một nhà cai trị chăm chỉ và quản lý đất nước mình bằng bàn tay sắt. Bước đầu tiên của ông nhằm tăng cường sức mạnh triều đình là đưa hệ thống thi cử quốc gia trở về các tiêu chuẩn trước đó. Năm 1724 ông đàn áp thẳng tay những trao đổi tiền bất hợp pháp, vốn bị các quan chức triều đình lợi dụng để kiếm chác. Những người vi phạm vào luật mới về tài chính đều bị cách chức hay trong những trường hợp nghiêm trọng, sẽ bị hành quyết.


Ung Chính rất tin tưởng vào các vị quan người Hán, và đã chỉ định nhiều người được ông che chở vào những chức vụ quan trọng. Một trong những trường hợp điển hình là Niên Canh Nghiêu đã được phong làm người chỉ huy chiến dịch quân sự tại Thanh Hải, thay cho người em trai của Ung Chính là hoàng tử Dận Trinh (胤禵). Tuy nhiên, những hành động kiêu ngạo của Niên khiến ông mất chức năm 1726.


Trong thời gian cai trị của Ung Chính, sức mạnh của đế quốc được củng cố và đạt tới mức cao nhất trong lịch sử Trung Quốc. Nhiều vùng đất ở phía tây bắc được sáp nhập vào lãnh thổ quốc gia. Một lập trường cứng rắn hơn được thực hiện nhằm mục đích loại bỏ các quan lại tham nhũng, và Ung Chính là người đã lập ra Quân Cơ Xứ (軍機處), trên thực tế là một bộ máy nhằm đảm bảo sự yên ổn của triều đình.


Hoàng đế Ung Chính mất năm 1735. Con trai ông Bảo Thân Vương (寶親王) Hoằng Lịch lên nối ngôi trở thành Hoàng đế Càn Long. Càn Long nổi tiếng là một vị tướng có tài. Nối ngôi ở tuổi 24, Càn Long đích thân chỉ huy một cuộc tấn công quân sự gần Tân CươngMông Cổ. Các cuộc nổi loạn và khởi nghĩa tại Tứ Xuyên và nhiều vùng ở phía nam Trung Quốc cũng được dẹp yên.


Khoảng bốn mươi năm kể từ khi Càn Long lên ngôi, chính phủ nhà Thanh đối mặt với tình trạng tham nhũng nặng nề trở lại. Hòa Thân một vị quan trong triều, là kẻ tham nhũng nhất vương quốc. Ông ta đã bị con trai Càn Long, Hoàng đế Gia Khánh (r. 1796 - 1820) buộc phải tự sát.

Mở rộng đế chế


Quân Thanh tấn công người Hồi giáo ở Tân Cương Thế kỷ XVIII


Sau khi chiếm Trung Hoa của nhà Minh, các hoàng đế nhà Thanh đã từng bước mở rộng đế chế của mình thông qua các cuộc chiến tranh và sát nhập. Họ đã chiếm thêm được Tân Cương, Tây Tạng, Đài Loan, một phần Kazakhstan, Kyrgyzstan, Uzbekistan ngày nay và cùng với Mông Cổ, Triều Tiên trước đó vào đế chế của mình. Họ chỉ thất bại trước Đại ViệtMiến Điện khi tiến xuống Đông Nam Á vào nửa sau thế kỷ 18, cho tới khi Đế quốc Nga xâm chiếm Trung Á vào thế kỉ 19.


Nổi loạn, bất ổn và áp lực ngày càng tăng


Một quan điểm thông thường về Trung Quốc ở thế kỷ 19 cho rằng đây là giai đoạn mà sự kiểm soát của nhà Thanh suy yếu đi và sự thịnh vượng cũng sút giảm. Quả vậy, Trung Quốc phải chịu đựng nhiều cuộc xung đột xã hội, đình đốn kinh tế và sự bùng nổ dân số đặt ra những vấn đề lớn đối với việc phân phối lương thực.


Các nhà sử học đã đưa ra nhiều sự giải thích cho những sự kiện trên, nhưng ý tưởng căn bản cho rằng quyền lực nhà Thanh, sau một thế kỷ, đã phải đối mặt với những vấn đề bên trong và áp lực bên ngoài khiến cho hình mẫu chính phủ, tình trạng quan liêu và hệ thống kinh tế của Trung Quốc thời ấy không sao giải quyết nổi.


Cờ nhà Thanh, 1890-1912


Carte de l'Empire chinois et du Japon, 1833, Conrad Malte-Brun, 1837.


Cuộc khởi nghĩa Thái bình thiên quốc vào giữa thế kỷ mười chín là ví dụ đầu tiên phản ánh tư tưởng chống Mãn Châu đe dọa sự ổn định của nhà Thanh, một hiện tượng còn tăng thêm trong những năm sau này. Tuy nhiên, số lượng thương vong kinh khủng của cuộc khởi nghĩa này - tới 30 triệu người - và sự tàn phá nghiêm trọng các vùng đất rộng lớn ở phía nam đất nước vẫn còn bị che mở bởi một cuộc xung đột khác. Dù không đẫm máu bằng, nhưng thế giới ảnh hưởng của thế giới bên ngoài qua những tư tưởng và kỹ thuật của nó đã có một ảnh hưởng rất lớn và cuối cùng mang lại tác động có tính cách mạng đối với một triều đình nhà Thanh đang ngày càng suy yếu và dao động.


Một trong những vấn đề lớn ở thế kỷ mười chín của Trung Quốc là cách thức đối phó với các nước khác bên ngoài. Trước thế kỷ mười chín, Đế chế Trung Quốc là cường quốc bá chủ ở Châu Á. Theo học thuyết đế quốc của họ, hoàng đế Trung Quốc có quyền cai trị toàn bộ "thiên hạ". Tùy theo từng giai đoạn và từng triều đại, họ hoặc cai trị trực tiếp các vùng lãnh thổ xung quanh hoặc buộc các nước đó phải nộp cống cho mình.


Các nhà sử học thường đưa ra quan niệm cơ bản của đế chế Trung Quốc, "đế chế không biên giới", khi đề cập tới thực trạng trên. Tuy nhiên, trong thế kỷ mười tám, các đế chế Châu Âu dần mở rộng ra khắp thế giới, khi các nước Châu Âu phát triển các nền kinh tế hùng mạnh dựa trên thương mại hàng hải. Mặt khác, đế chế Trung Quốc rơi vào tình trạng tù hãm sau nhiều thế kỷ dẫn đầu thế giới.


Tới cuối thế kỷ mười tám, các thuộc địa của Châu Âu đã được lập nên ở gần Ấn Độ và trên những hòn đảo hiện là các vùng thuộc Indonesia, trong khi Đế chế Nga đã sáp nhập các vùng phía bắc Trung Quốc. Ở thời các cuộc chiến tranh Napoleon, Anh Quốc từng muốn thành lập liên minh với Trung Quốc, gửi các hạm đội tàu tới Hồng Kông mang theo quà tặng gửi tới vị Hoàng đế, gồm nhiều vật phẩm được chế tạo bởi những kỹ thuật và phong cách nghệ thuật mới nhất của Châu Âu thời kỳ đó. Khi các phái đoàn Anh nhận được một lá thư từ Bắc Kinh giải thích rằng Trung Quốc không cảm thấy ấn tượng trước những thành tựu của Châu Âu và cho rằng triều đình Trung Quốc sẵn lòng nhận sự kính trọng của vua George III nước Anh, chính phủ Anh cảm thấy bị xúc phạm và từ bỏ mọi kế hoạch nhằm thiết lập các quan hệ với nhà Thanh.


Khi các cuộc chiến tranh Napoleon chấm dứt năm 1815, thương mại thế giới tăng trưởng nhanh chóng, và bởi vì dân số đông đảo của Trung Quốc là một thị trường vô hạn cho hàng hóa Châu Âu, thương mại giữa Trung Quốc và các thương gia Châu Âu phát triển trong những năm đầu của thế kỷ mười chín. Khi thương mại tăng trưởng, sự thù nghịch cũng gia tăng giữa các chính phủ Châu Âu và nhà Thanh.


Năm 1793, nhà Thanh chính thức cho rằng Trung Quốc không cần tới các hàng hóa Châu Âu. Vì thế, các lái buôn Trung Quốc chỉ chấp nhận dùng bạc làm vật trao đổi cho hàng hóa của họ. Nhu cầu to lớn của Châu Âu đối với các hàng hóa Trung Quốc như , trà, và đồ sứ chỉ có thế được đáp ứng khi các công ty Châu Âu rót hết số bạc họ có vào trong Trung Quốc. Tới cuối những năm 1830, các chính phủ AnhPháp rất lo ngại về các kho dự trữ kim loại quý của họ và tìm cách đưa ra một phương thức trao đổi mới với Trung Quốc - và cách tốt nhất là đầu độc Trung Quốc bằng thuốc phiện. Khi nhà Thanh tìm cách cấm buôn bán thuốc phiện năm 1838, Anh Quốc đã tuyên chiến với Trung Quốc.


Chiến tranh nha phiến lần thứ nhất cho thấy sự lạc hậu của quân đội Trung Quốc. Dù có quân số áp đảo so với người Anh, kỹ thuật và chiến thuật của họ không thể so sánh với các cường quốc kỹ thuật thời ấy. Hải quân nhà Thanh, gồm toàn các tàu gỗ không phải là đối thủ của các tàu chiến bọc thép chạy hơi nước của Hải quân Hoàng gia Anh. Binh sĩ Anh sử dụng súng có rãnh xoắnpháo binh vượt trội dễ dàng tiêu diệt các lực lượng nhà Thanh trên chiến trường.


Việc nhà Thanh đầu hàng năm 1842 đánh dấu một tai họa mang tính quyết định và nhục nhã của Trung Quốc. Hiệp ước Nam Kinh, buộc họ phải trả các khoản bồi thường thiệt hại, cho phép các thương gia Châu Âu đi lại không hạn chế tại các cảng Trung Quốc và nhượng đảo Hồng Kông cho Anh Quốc. Nó cũng cho thấy nhiều tình trạng tồi tệ của chính phủ nhà Thanh và khiến cho nhiều cuộc khởi nghĩa chống chế độ diễn ra.


Các cường quốc phương tây, chưa hài lòng với Hiệp ước Nam Kinh, chỉ miễn cưỡng hỗ trợ nhà Thanh trong việc tiêu diệt các cuộc nổi dậy Thái Bình Thiên Quốc và cuộc khởi nghĩa Niệm Quân. Thu nhập của Trung Quốc giảm sút rõ rệt trong thời gian chiến tranh khi nhiều vùng đất canh tác rộng lớn bị hủy hoại, hàng triệu người thiệt mạng và số lượng binh lính đông đảo cũng như trang bị vũ khí cho họ để chiến đấu.


Năm 1854, Anh Quốc tìm cách đàm phán lại Hiệp ước Nam Kinh, thêm vào các điều khoản cho phép các thương gia người Anh đi lại trên sông ngòi Trung Quốc và lập một đại sứ quán thường trực của họ tại Bắc Kinh. Điều khoản cuối cùng này xúc phạm tới chính quyền nhà Thanh và họ đã từ chối ký kết, gây ra một cuộc chiến tranh khác giữa hai bên. Cuộc chiến tranh nha phiến lần thứ hai chấm dứt với một thất bại nặng nề khác của Trung Quốc, với Hiệp ước Thiên Tân cùng cách điều khoản "xấc xược" đối với phía Trung Quốc, như yêu cầu tất cả các tài liệu chính thức của Trung Quốc phải được viết bằng tiếng Anh và một quy định cho phép các tàu chiến Anh được đi lại không hạn chế trên các sông ngòi Trung Quốc.


Sự cai trị của Từ Hi Thái Hậu




Trong bức tranh này, Trung Quốc đang bị Anh, Đức, Nga, Pháp, và Nhật chia nhau


Bài chi tiết: Từ Hi Thái Hậu


Cuối thể kỷ 19, một nhà lãnh tụ mới xuất hiện là Từ Hi Thái Hậu. Xuất thân chỉ là một phi tần của Hàm Phong (1850-1861), nhưng nhờ sinh ra Thái tử Tái Thuần nên sau khi Hàm Phong chết và vị hoàng tử nhỏ tuổi lên ngôi lấy hiệu là Đồng Trị, Từ Hi đã ngấm ngầm tiến hành cuộc đảo chính để tước quyền nhiếp chính của đại thần Túc Thuận theo di chiếu của tiên hoàng. Bà nắm quyền nhiếp chính và trở thành người đứng đầu không chính thức của Trung Hoa suốt 47 năm. Bà còn được biết tới bởi sự nhúng tay vào chính sự kiểu "Thùy liêm thính chính" (垂簾聽政-tức can thiệp chính trị từ sau hậu đài).


Tới những năm 1860, triều đình nhà Thanh đã tiêu diệt được các cuộc nổi dậy nhờ sự hỗ trợ của lực lượng dân quân do tầng lớp quý tộc tổ chức. Sau đó, chính phủ Thanh tiếp tục giải quyết vấn đề hiện đại hoá, từng được đưa ra trước đó với Phong trào tự cường. Nhiều đội quân hiện đại được thành lập gồm cả Hạm đội Bắc Hải; tuy nhiên Hạm đội Bắc Hải đã bị tiêu diệt trong Chiến tranh Trung Nhật (1894-1895), khiến cho ngày càng xuất hiện nhiều kêu gọi cải cách sâu rộng hơn nữa. Đầu thế kỷ 20, nhà Thanh rơi vào tình trạng tiến thoái lưỡng nan. Nếu tiếp tục theo đuổi cải cách, họ sẽ khiến giới quý tộc bảo thủ mất lòng, nếu ngăn cản việc đó họ lại khiến những người theo đường lối cách mạng tức giận. Nhà Thanh tìm cách đi theo con đường trung dung, nhưng việc này lại khiến tất cả các bên cùng bất mãn.


Mười năm trong giai đoạn cai trị của Hoàng đế Quang Tự (r. 1875 - 1908), áp lực của phương Tây đối với Trung Quốc lớn tới mức họ phải từ bỏ mọi hình thức quyền lực. Năm 1898 Quang Tự nỗ lực tiến hành Cuộc cải cách một trăm ngày (百日維新, Bách nhật duy tân), còn được biết dưới cái tên "Mậu Tuất biến pháp" (戊戌變法), đưa ra các luật mới thay thế cho các quy định cũ đã bị bãi bỏ. Những nhà cải cách, với đầu óc tiến bộ hơn như Khang Hữu Vi được tin tường và những người có đầu óc thủ cựu như Lý Hồng Chương bị gạt bỏ khỏi các vị trí quan trọng. Nhưng các ý tưởng mới đã bị Từ Hi dập tắt, Quang Tự bị nhốt trong cung. Từ Hi chỉ tập trung vào việc củng cố quyền lực của riêng mình. Tại buổi lễ sinh nhật lần thứ 60, bà đã chi 30 triệu lạng bạc để trang trí và tổ chức, số tiền đã định dùng để cải tiến vũ khí cho Hạm đội Bắc Hải.


Năm 1901, sau khi Đại sứ Đức bị ám sát, Liên quân tám nước (八國聯軍) cùng tiến vào Trung Quốc lần thứ hai. Từ Hi phản ứng bằng cách tuyên chiến với tám nước, nhưng chỉ một thời gian ngắn đã để mất Bắc Kinh và cùng với Hoàng đế Quang Tự chạy trốn tới Tây An. Để đòi bồi thường chiến phí, Liên quân đưa ra một danh sách những yêu cầu đối với chính phủ nhà Thanh, gồm cả một danh sách những người phải bị hành quyết khiến cho Lý Hồng Chương, thuyết khách số một của Từ Hi, buộc phải đi đàm phán và Liên quân đã có một số nhượng bộ đối với các yêu cầu của họ.


Chính phủ nhà Thanh và xã hội


Trung Quốc thời nhà Thanh năm 1882


Viên Thế Khải một chính trị gia và tướng lĩnh lão luyện


Chính trị


Bộ máy hành chính quan trọng nhất của nhà Thanh là Đại hội đồng, là một cơ quan gồm hoàng đế và các quan lại cao cấp. Nhà Thanh có đặc trưng bởi một hệ thống chỉ định kép, theo đó mỗi vị trí trong chính phủ trung ương đều có một người Hán và một người Mãn Châu cùng quản lý. Ví dụ, ở thời Hoàng đế Càn Long các thành viên của gia đình ông được phân biệt bởi một loại trang phục với biểu tượng hình tròn ở phía sau lưng, trong khi người Hán chỉ được mặc trang phục với một biểu tượng hình vuông; điều này có nghĩa là bất kỳ người lính nào trong cung đều có thể dễ dàng phân biệt các thành viên gia đình hoàng gia mà chỉ cần quan sát từ phía sau.


Đối với Mông Cổ, Tây Tạng và Đông Turkestan, giống như các triều đại trước đó, nhà Thanh vẫn giữ quyền kiểm soát đế quốc với việc hoàng đế kiêm vai trò Hãn Mông Cổ, người bảo trợ của Phật giáo Tây Tạng và người bảo vệ cho Hồi giáo. Tuy nhiên, chính sách của nhà Thanh đã thay đổi với việc thành lập tỉnh Tân Cương năm 1884. Để đối phó với các hành động quân sự của Anh và Nga tại Tân Cương và Tây Tạng, nhà Thanh đã phái các đơn vị quân đội tới và họ đã đương đầu khá tốt với quân Anh.


Sự từ bỏ địa vị của hoàng đế Thanh đương nhiên dẫn tới tình trạng tranh cãi về địa thế của các lãnh thổ tại Tây Tạng và Mông Cổ. Quan điểm của những người theo chủ nghĩa quốc gia Tây Tạng và Mông Cổ thời ấy cũng như hiện tại cho rằng bởi vì họ đã trung thành với nhà Thanh thì khi nhà Thanh từ bỏ vị thế của mình họ không còn bổn phận gì nữa đối với nước Trung Hoa mới. Lập trường này bị Cộng hòa Trung Hoa và sau này là Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa bác bỏ dựa trên các yêu sách của họ cho rằng trên thực tế các vùng này từng là các vùng đất thuộc các triều đại Trung Quốc từ trước cả nhà Thanh.


Bất kỳ thuộc sắc tộc nào, người Hán, người Mãn Châu, người Mông Cổ hay những nhóm thiểu số khác, tất cả họ đều đã thành lập lên các triều đại với tính chất Hán trung tâm (Sino-centric), và cho rằng lịch sử cũng như tính chính thống của các lãnh thổ này đều là một phần của đế quốc Trung Quốc trong hơn hai ngàn năm qua. Các cường quốc phương Tây chấp nhận lý thuyết sau này, một phần với mục đích tránh tranh cãi với Trung Quốc.


Quan liêu


Các bình nhà Thanh, tại Bảo tàng Calouste Gulbenkian, Lisbon


Hệ thống hành chính của nhà Thanh dựa trên hệ thống trước đó của nhà Minh. Ở tình trạng phát triển nhất, chính phủ Thanh tập trung quanh Hoàng đế với tư cách là người cầm quyền tối cao chỉ huy sáu bộ, mỗi bộ do hai Thượng thư (尚書|Shángshù) đứng đầu và được hỗ trợ bởi bốn Thị lang (侍郎|Shílāng). Tuy nhiên, không giống như hệ thống của nhà Minh, chính sách căn bản của nhà Thanh quy định rằng việc chỉ định chức vụ được phân chia giữa quý tộc Mãn Châu và quan lại Hán, những người đã vượt qua các kỳ thi tuyển ở mức độ cao nhất của nhà nước.


Hầu như trong toàn bộ thời gian tồn tại của nhà Thanh, bộ máy quan lại của Hoàng đế đều có sự hiện diện của Quân Cơ Xứ (軍機處), một cơ quan chuyên trách các vấn đề quân sự và tình báo, nhưng sau này nó lại chịu trách nhiệm giám sát mọi bộ của chính phủ. Các vị quan quản lý Quân Cơ Xứ nắm luôn vai trò Tể tướng, và một vài người trong số họ từng được chỉ định làm người đứng đầu Quân Cơ Thủ Phụ (軍機首輔). Sáu bộ và các lĩnh vực quản lý của họ như sau:


Lại bộ (吏部) - Quản lý nhân sự hành chính cho mọi chức vụ dân sự - gồm cả đánh giá, bổ dụng, và thải hồi. Bộ này cũng chịu trách nhiệm lập 'danh sách danh dự'.


Hộ bộ (户部) - Dịch nghĩa theo từ Trung Quốc, "hộ" (户- 'hú') có nghĩa là 'gia đình'. Hầu như trong toàn bộ thời cai trị của nhà Thanh, nguồn thu chính của chính phủ có từ thuế do các chủ đất đóng và các khoản phụ khác từ độc quyền nhà nước như các vật dụng gia đình thiết yếu là muối và trà. Vì thế, với ưu thế áp đảo của trồng trọt ở thời nhà Thanh, 'gia đình' là gốc cơ bản của nguồn tài chính quốc gia. Bộ này chịu trách nhiệm thu thuế và quản lý tài chính cho chính phủ.


Lễ bộ (禮部) - Bộ này chịu trách nhiệm mọi vấn đề liên quan tới nghi thức lễ tân tại triều đình, gồm cả không chỉ những lễ thờ cúng tổ tiên định kỳ và nhiều vị thánh thần khác của Hoàng đế—với tư cách "Thiên tử" (天子 - con trời), để đảm bảo sự hoạt động trơn tru của đế chế—mà còn chịu trách nhiệm cả vấn đề tiếp đãi các sứ đoàn từ các nước tới nộp cống. Quan niệm Trung Quốc về lễ (礼), theo Khổng Tử dạy, được coi là một phần của giáo dục.


Từng có quan niệm rằng một học giả phải "tri thư, đạt lễ" (知書達禮) có nghĩa là phải học rộng và cư xử đúng lễ nghi. Vì thế, một chức năng khác của bộ này là giám sát các hệ thống thi cử dân sự trên toàn quốc để lựa chọn quan lại. Bởi vì dân chủ là một vấn đề chưa từng được biết tới ở thời tiền Cộng hòa tại Trung Quốc, các triết lý Khổng Tử mới coi các cuộc thi cử của nhà nước là con đường để chính thống hóa một chế độ bằng cách cho phép nhân tài tham gia vào chính quyền độc đoán và khép kín trước đó.


Binh bộ (兵部) - Không giống thời nhà Minh trước đó, vốn kiểm soát toàn bộ các lĩnh vực quân sự, Binh bộ nhà Thanh có quyền lực rất hạn chế. Đầu tiên các Kỳ binh (quân chủ lực) nằm dưới quyền quản lý trực tiếp của Hoàng đế và các hoàng tử người Mãn Châu và Mông Cổ, khiến cho bộ này chỉ có quyền lực đối với các lộ quân địa phương. Hơn nữa, các chức năng của bộ hầu như chỉ đơn thuần là hành chính - các chiến dịch và các đợt diễn tập quân sự được chỉ huy và giám sát bởi Hoàng đế, đầu tiên thông qua hội đồng quản lý người Mãn Châu và sau này là Quân Cơ Xứ (軍機處).


Hình bộ (刑部) - Hình bộ xử lý mọi vấn đề pháp luật, gồm cả giám sát các tòa án và nhà tù. Bộ luật hình sự nhà Thanh khá yếu kém so với các hệ thống luật pháp hiện đại hiện nay, bởi vì nó không có sự phân biệt giữa các nhánh hành pháp và lập pháp trong chính phủ. Hệ thống pháp luật có thể mâu thuẫn, và khá nhiều khi tỏ ra độc đoán, bởi vì Hoàng đế cai trị bằng nghị định và là người đưa ra phán quyết cuối cùng đối với mọi vấn đề luật pháp.


Các hoàng đế có thể (và đã) đảo ngược các phán quyết của các tòa án cấp dưới tùy theo từng lúc. Sự công bằng trong đối xử cũng là một vấn đề dưới hệ thống phân biệt chủng tộc do chính phủ Mãn Châu áp dụng đối với cộng đồng đa số người Hán. Để giảm bớt các vấn đề không thỏa đáng đó và giữ cho dân chúng sống yên ổn, nhà Thanh áp dụng một hệ thống luật hình sự rất khắc nghiệt đối với người Hán, nhưng không tới mức nghiêm khắc quá đáng như ở các triều đại trước đó.


Công bộ (工部) - Công bộ xử lý mọi dự án xây cất của triều đình gồm các cung điện, đền đài và sửa chữa các đường thủy cũng như các kênh tiêu lũ. Họ cũng chịu trách nhiệm đúc tiền.


Ngoài sáu bộ kể trên, có một Lý Phiên Viện (理藩院|Lǐfànyuán) và đây là cơ quan chỉ riêng có ở nhà Thanh. Cơ quan này ban đầu chịu trách nhiệm điều hành quan hệ với các đồng minh Mông Cổ. Khi đế chế mở rộng thêm, nó nhận thêm các công việc hành chính đối với tất cả các nhóm thiểu số sống trong và ngoài đế chế, gồm cả những tiếp xúc đầu tiên với Nga - khi ấy còn được coi là một quốc gia triều công. Cơ quan này hoạt động như một bộ thực sự và vị quan đứng đầu cũng có mức hàm tương đương. Tuy nhiên, ban đầu những ứng cử viên lãnh đạo nó chỉ là người thuộc dân tộc Mãn Châu và Mông Cổ.


Dù Lễ bộ và Lý Phiên Viện có một số trách nhiệm chung trong ngoại giao, chúng vẫn không được sáp nhập vào nhau. Điều này xuất phát từ quan điểm truyền thống của đế quốc coi Trung Quốc là trung tâm của thế giới và mọi người nước ngoài đều là những kẻ mọi rợ chưa khai hóa không xứng đáng có tư cách ngoại giao tương đương với họ. Chỉ tới năm 1861—một năm sau khi thua trận trong "Chiến tranh nha phiến lần thứ hai" trước liên minh Anh-Pháp—chính phủ nhà Thanh mới lùi bước trước sức ép của nước ngoài và lập ra một bộ ngoại giao thực sự được gọi theo một cái tên dài lê thê là "Tổng lý các quốc sự vụ nha môn" (總理各國事務衙門), hay nói gọn là "Tổng lý nha môn" (總理衙門)).


Ban đầu cơ quan này được dự định tạm thời sử dụng các viên chức thuyên chuyển từ Quân Cơ Xứ (軍機處) theo kiểu làm việc bán thời gian. Tuy nhiên, khi việc giải quyết vấn đề với những người nước ngoài ngày càng phức tạp và thường xuyên, cơ quan ngày càng mở rộng và trở nên quan trọng, và càng có ưu thế khi được sử dụng tiền thu từ thuế hải quan. Dù triều đình nghi ngờ về mọi thứ liên quan tới nước ngoài, văn phòng này đã trở thành một trong những bộ có nhiều quyền lực nhất bên trong chính phủ nhà Thanh.


Quân sự


Những sự khởi đầu và sự phát triển đầu tiên


Bài chi tiết: Bát Kỳ


Sự phát triển của hệ thống quân đội nhà Thanh có thể được chia ra làm hai giai đoạn rõ rệt trước và sau cuộc khởi nghĩa Thái bình thiên quốc (1850 - 64). Ban đầu quân đội nhà Thanh dựa theo hình thức Bát Kỳ Mãn Châu do Nỗ Nhĩ Cáp Xích phát triển thành một cách thức tổ chức xã hội Mãn Châu căn cứ trên tổ chức các nhóm bộ tộc. Tổng cộng có tám nhóm bộ tộc được gọi là Kỳ (cờ), mỗi kỳ có một màu chủ đạo riêng biệt. Thứ tự ưu tiên của các kỳ như sau: Chính Hoàng (Vàng), Tương Hoàng (Vàng có viền, ví dụ Vàng viền đỏ), Chính Bạch (Trắng), Chính Hồng (Đỏ), Tương Bạch (Trắng viền), Tương Hồng (Đỏ viền), Chính Lam (Xanh) và Tương Lam (Xanh viền). Chính Hoàng kỳ, Tương Hoàng Kỳ và Chính Bạch kỳ thường được gọi là 'Thượng Tam Kỳ'(上三旗) và nằm dưới sự chỉ huy trực tiếp của Hoàng đế.


Chỉ những người Mãn Châu thuộc Thượng Tam Kỳ mới được đích thân Hoàng đế lựa chọn vào đội bảo vệ riêng của mình. Những kỳ còn lại được gọi là 'Hạ Ngũ Kỳ' (下五旗) và được chỉ huy bởi các hoàng tử người Mãn Châu trực hệ của Nurhachi theo chế độ cha truyền con nối, và thường được gọi theo nghi thức là 'Thiết mạo tử vương' (鐵帽子王 - Các hoàng tử mũ sắt) hay các 'Hòa Thạc' (和硕). Họ cùng nhau tạo thành một hội đồng quản lý quốc gia Mãn Châu cũng như bộ tư lệnh quân đội có tên gọi là Hòa Thạc Bội Cần.


Năm 1730 Hoàng đế Ung Chính thành lập Quân Cơ Xứ (Junjichu|軍機處) ban đầu để chỉ huy trực tiếp các hoạt động hàng ngày của quân đội nhưng dần dần Quân Cơ Xứ lãnh một số trách nhiệm hành chính và quân sự khác của quân đội và chịu trách nhiệm tập trung hóa quyền lực vào triều đình. Tuy nhiên, các Hòa thạc vẫn tiếp tục đóng vai trò có ảnh hưởng to lớn trong các hoạt động chính trị và quân sự của triều đình nhà Thanh cũng như công việc cai trị của Hoàng đế Càn Long.


Khi quyền lực nhà Thanh mở rộng về phía bắc Vạn lý trường thành trong những năm cuối triều nhà Minh, hệ thống các Kỳ được con trai và là người thừa kế của NurhachiHoàng Thái Cực phát triển thêm các kỳ Mông Cổ và các kỳ Hán. Khi họ kiểm soát được những vùng lãnh thổ cũ của nhà Minh, các Kỳ đội có quy mô khá nhỏ đó được tăng cường bởi Lục doanh quân (綠營兵 lục doanh binh) vốn có quân số lớn gấp ba các Kỳ. Lục doanh quân là các đội quân người Hán.


Các đội quân này được điều khiển bởi một Ban chỉ huy gồm cả các đô thống Lục doanh quân và Kỳ binh. Các Kỳ và Lục doanh là quân thường trực, được chính phủ trả lương. Ngoài ra, các quan lại địa phương từ mức tỉnh trở xuống tới mức xã vẫn giữ một lực lượng dân quân không chính quy làm các nhiệm vụ cảnh sát và cứu nạn. Các đội dân quân đó thường nhận được một khoản lương nhỏ hàng năm lấy từ kho bạc địa phương cho hoạt động của mình. Họ ít khi được huấn luyện quân sự và nếu có được huấn luyện thì cũng không được coi là đội quân chiến đấu.


Hòa bình và trì trệ


Các Kỳ đội được phân chia theo dòng dõi dân tộc, có nghĩa theo người Mãn Châu và người Mông Cổ. Dù vẫn có một nhánh thứ ba gồm những kỳ binh người Hán từng theo người Mãn Châu trước khi nhà Thanh được thành lập, những kỳ binh Hán không bao giờ được chính phủ đối xử bình đẳng so với hai nhánh kia vì việc họ gia nhập muộn hơn và vì dòng giống Hán Trung Quốc của họ. Chuyên môn quân sự của họ - chủ yếu trong bộ binh, pháo binh và công binh, cũng bị coi là xa lạ so với truyền thống sử dụng kị binh của những người du mục Mãn Châu.


Sau khi hoàn thành công cuộc chinh phục, các vai trò quân sự của kỳ binh Hán nhanh chóng bị Lục doanh quân thâu tóm. Các Kỳ binh Hán hoàn toàn chấm dứt tồn tại sau khi Hoàng đế Ung Chính cải cách lại các Kỳ nhằm mục tiêu giảm chi phí triều đình. Các nguồn gốc quân sự-xã hội của hệ thống Kỳ binh có nghĩa là dân cư bên trong mỗi nhánh của hệ thống Kỳ binh cùng như các nhánh phụ của nó tuân theo hệ thống cha truyền con nối và cứng nhắc. Chỉ trong những hoàn cảnh đặc biệt được sự đồng ý theo nghị định triều đình việc di chuyển xã hội giữa các kỳ mới được thực hiện.


Trái lại Lục doanh quân ban đầu được dự định xây dựng trở thành một lực lượng chuyên nghiệp. Tuy nhiên, trong những giai đoạn hòa bình lâu dài ở Trung Quốc từ thế kỷ 18 đến giữa thế kỷ 19, việc tuyển dụng lính từ các cộng đồng nông nghiệp đã giảm sút, một phần vì lập trường chống đối của tầng lớp trí thức Khổng giáo mới với nghề binh. Nhằm giữ vững sức mạnh, Lục quân bắt đầu biến đổi, dần trở thành một chế độ kiểu cha truyền con nối.


Lực lượng Kỳ binh đông đảo tới gần 200.000 ngàn quân của người Mãn Châu được chia thành; một nửa được chỉ định vào Cấm Lữ Bát Kỳ (禁旅八旗 Jìnlǚ Bāqí) đóng quân tại Bắc Kinh. Họ vừa đóng vai trò đội quân đồn trú của chính phủ nhà Thanh vừa là lực lượng chiến đấu. Số còn lại được chia vào nhiệm vụ canh gác các thành phố quan trọng ở Trung Quốc. Họ được gọi là Trú Phòng Bát Kỳ (駐防八旗 Zhùfáng Bāqí).


Tầng lớp cai trị Mãn Châu, nhận thức rõ số lượng nhỏ nhoi của mình so với người Hán, đã áp dụng một chính sách nghiêm ngặt về phân biệt nguồn gốc giữa người Mãn Châu và Mông Cổ với người Hán vì sợ rằng sẽ bị người Hán đồng hoá. Chính sách này được áp dụng trực tiếp tới các đội quân Kỳ đồn trú, đa số họ chiếm giữ một vùng có tường bao kín xung quanh bên trong các thành phố đồn trú của họ. Bên trong các thị trấn chật hẹp như Thanh Châu (青州), một thị trấn pháo đài mới được xây dựng làm nơi sinh sống cho quân Kỳ đồn trú và gia đình họ.


Bắc Kinh là thủ đô của đế chế, Nhiếp chính Dorgon (Đa Nhĩ Cổn) buộc toàn bộ dân Trung Quốc phải dời đi sống tại các khu ngoại thành phía nam sau này được gọi là "Ngoại Thành" (外城 wàichéng). Thành phố có tường bao ở phía bắc được gọi là "Nội thành" (内城 nèichéng) được phân chia cho Bát Kỳ Mãn Châu còn lại, mỗi Kỳ chịu trách nhiệm canh gác khu của mình bên trong Nội Thành bao quanh khu dinh thự Tử Cấm Thành (紫禁城 Zǐjìnchéng).


Chính sách bố trí quân đội các Kỳ làm quân đồn trú tại các địa phương không phải để bảo vệ mà là để ngăn chặn sự lo ngại của người Mãn Châu thông qua việc nô dịch hóa dân chúng bằng lợi thế kỵ binh của họ. Vì thế, sau một thế kỷ hòa bình và hiếm khi được huấn luyện trên chiến trường, các Kỳ binh Mãn Châu dần đánh mất khả năng chiến đấu. Thứ hai, trước cuộc chinh phục, các Kỳ binh Mãn Châu là một 'công dân' quân đội, và các thành viên của nó là các nông dân và người chăn thả gia súc Mãn Châu bị buộc phải đi lính cho đất nước trong thời gian chiến tranh.


Quyết định của nhà Thanh buộc các Kỳ binh phải trở thành một lực lượng chuyên nghiệp khiến cho nhà nước phải chu cấp cho mọi nhu cầu của họ, và với sự tham nhũng xảy ra từ binh lính cho đến sĩ quan khiến họ càng nhanh chóng biến chất không còn đáp ứng được yêu cầu của một đội quân chiến đấu. Điều tương tự cũng xảy ra trong Lục doanh quân. Ở thời bình, việc đi lính chỉ đơn giản là để kiếm thêm một khoản thu nhập. Các binh sĩ và chỉ huy đều không quan tâm tới việc huấn luyện mà chỉ chăm chú vào việc kiếm tiền. Tham nhũng tăng lên khi chỉ huy các đơn vị địa phương đề xuất tài chính và trang bị dựa trên các con số đã được thổi phồng lên để bỏ túi phần chênh lệch. Khi khởi nghĩa Thái bình thiên quốc nổ ra trong thập kỷ 1850, triều đình nhà Thanh mới muộn màng nhận ra rằng Kỳ binh và Lục doanh quân không thể giúp họ dẹp tan nội loạn cũng như bảo vệ đất nước khỏi quân xâm lược.


Chuyển biến và hiện đại hoá


Sự thất bại của Trung Hoa trong những cuộc chiến tranh với nước ngoài đã làm cho sĩ phu thức tỉnh. Cũng như nhiều quốc gia Á Đông thời kỳ đó, nhiều nho sĩ Trung Hoa đã yêu cầu Thanh đình cải cách về quân sự, chính trị cũng như xã hội.


Hai người đi đầu trong việc hoạch định một chính sách mới là Ngụy NguyênPhùng Quế Phương. Ngụy Nguyên đưa ra những biện pháp nhan đề Trù Hải Thiên (Kế Hoạch Phòng Thủ Duyên Hải) năm 1842 đại lược như sau:


- Cải cách quân đội bằng cách học hỏi cách chế tạo vũ khí, đóng tàu của người phương Tây. Ngoài ra phải đãi ngộ xứng đáng, trả lương hậu hĩ để có được những binh sĩ ưu tú


- Tập trung phòng thủ trên đất liền và dụ địch vào trong các thủy đạo để tiêu diệt tại một khu vực đã sắp xếp trước


- Liên minh với nhiều nước để họ kiềm chế lẫn nhau và mượn tay kẻ thù này tiêu diệt kẻ thù kia


- Mở cửa cho người ngoại quốc vào buôn bán


Phùng Quế Phương là học trò của Lâm Tắc Từ. Lúc ở Thượng Hải đã chịu ảnh hưởng của tư tưởng chủ nghĩa tư bản. Năm 1861 ông đã viết quyển sách " Hiệu lư bân" kháng nghị chủ trương học tập khoa học tự nhiên và kỹ thuật sản xuất của các nước tư bản như thiên văn, lịch pháp, công cụ sản xuất va các mặt tri thức khác, mong muốn thông qua biện pháp cải lương chính trị để đưa Trung Quốc tiến lên con đường tư bản. Ông đi sâu hơn vào những cải cách chính trị và xã hội trong đó ông nhấn mạnh:


- Học hỏi và tự chế tạo những vũ khí cần thiết, thúc đẩy người học về kỹ thuật để thoát ra khỏi những đe dọa của nước ngoài.


- Cải cách giáo dục để đào tạo nhân tài bao gồm nhiều lãnh vực kỹ thuật và khoa học khác đồng thời biến cải kỹ nghệ quốc phòng


- Cải cách cách huấn luyện binh sĩ, đào tạo những lực lượng nhỏ nhưng tinh nhuệ hơn là duy trì một đội quân khổng lồ nhưng kém cỏi


- Áp dụng lý thuyết Thể Dụng, duy trì tinh thần Khổng Mạnh nhưng áp dụng kỹ thuật mới.


Trịnh Quan Ứng, một thương nhân nổi tiếng: chủ trương khai thác mỏ quặng, xây dựng đường sắt, xuất bản báo chí, lập trường học, yêu cầu thành lập nghị viện và xây dựng chế độ quân chủ lập hiến.


Những quan điểm mới đó sau này được phát động để trở thành một phong trào dưới cái tên Dương Vụ Vận Động. Tuy nhiên những vận động có tính chất "lửa rơm" đó không đi đến đâu vì chỉ do nhiệt huyết sĩ phu mà không phải là những chương trình được nghiên cứu chu đáo và áp dụng một cách qui củ. Những cải cách quân sự vẫn chỉ hời hợt bề ngoài nên không thành công. Về sau, để đối phó với những tổ chức nổi dậy, nhiều đơn vị quân sự địa phương được thành lập và ít nhiều mang lại những sinh khí mới như Tương quân của Tăng Quốc Phiên, gia tăng lưu động tính, nhấn mạnh vào đức tính của quân sĩ, Hoài quân của Lý Hồng Chương, sử dụng vũ khí phương Tây, Sở quân của Tả Tông Đường nhấn mạnh vào vai trò hệ thống tiếp liệu.


Cải cách trong quân đội.


Đầu cuộc khởi nghĩa Thái Bình thiên quốc, các lực lượng nhà Thanh chịu một loạt các thất bại nặng nề dẫn tới việc mất thủ đô hành chính địa phương tại Nam Kinh (南京) 1853. Quân khởi nghĩa giết toàn bộ quân đồn trú Mãn Thanh và gia đình họ sống tại thành phố và biến nó làm thủ đô của họ. Chỉ một thời gian ngắn sau đó, lực lượng viễn chinh của Thái bình thiên quốc xâm nhập về phía bắc tới tận các vùng ngoại ô Thiên Tân (天津), nơi được coi là vùng trung tâm của đế quốc.


Trong tình trạng tuyệt vọng, triều đình lệnh cho một vị quan Trung Quốc là Tăng Quốc Phiên (曾國藩) tổ chức lại lực lượng dân quân tại các vùng và các địa phương (Đoàn Dũng 團勇 và Hương Dũng 鄉勇) thành một lực lượng thường trực để chống lại quân Thái Bình. Chiến lược của Tăng Quốc Phiên dựa trên giới quý tộc địa phương để xây dựng lên một tổ chức quân sự mới từ các tỉnh đang bị quân Thái Bình đe dọa trực tiếp.


Lực lượng mới này được gọi là Sương quân (湘軍), được đặt tên theo vùng đất nơi họ được thành lập. Sương quân là một hỗn hợp giữa dân quân địa phương và quân đội thường trực. Họ được huấn luyện chuyên nghiệp, nhưng lĩnh lương từ ngân khố địa phương. Sương quân và lực lượng sau này là Hoài quân (淮軍) được các vị quan đồng triều với Tăng Quốc Phiên cùng người 'học trò' là Lý Hồng Chương thành lập (hai quân này thường được gọi chung là Dũng Doanh (勇營).


Trước khi thành lập và chỉ huy Hoài quân, Tăng Quốc Phiên chưa từng có kinh nghiệp quân sự. Là một vị quan được giáo dục theo kiểu cổ điển, kế hoạch thành lập Hoài quân của ông được thực hiện theo kinh nghiệm lịch sử - tướng nhà Minh là Thích Kế Quang (戚繼光) vì thấy sự yếu kém của quân đội triều đình đã quyết định thành lập đội quân 'riêng' của mình nhằm chống lại quân cướp biển Nhật Bản ở giữa thế kỷ 16. Học thuyết của Thích Kế Quang dựa nhiều vào các tư tưởng Tân Khổng giáo ràng buộc tính trung thành của quân đội với cấp chỉ huy trực tiếp và vào vùng đất nơi họ được thành lập.


Việc này đầu tiên tạo cho quân đội một số tinh thần đoàn kết. Tuy nhiên, cần phải chỉ ra rằng quân đội của Thích Kế Quang là một giải pháp tình thế cho một vấn đề cụ thể - chiến đấu chống lại cướp biển, cũng như Tăng Quốc Phiên dự định thành lập Hoài quân để chống quân khởi nghĩa Thái Bình. Tuy nhiên theo hoàn cảnh, hệ thống Dũng binh trở thành một cơ cấu thường trực bên trong quân đội nhà Thanh và cùng với thời gian nó lại gây ra những vấn đề cho chính phủ trung ương.


Đầu tiên hệ thống Dũng binh báo hiệu sự kết thúc ưu thế của người Mãn Châu bên trong thể chế quân đội nhà Thanh. Dù các Kỳ và Lục doanh quân làm lãng phí các nguồn tài nguyên cần thiết cho bộ máy hành chính của nhà Thanh, từ đó các cơ cấu Dũng binh trên thực tế đã trở thành lực lượng số một của chính phủ Thanh. Thứ hai, các đơn vị Dũng binh được tài trợ từ nguồn tài chính của các tỉnh và tuân theo sự chỉ huy của các tướng lĩnh địa phương.


Sự thay đổi này khiến cho quyền lực của chính phủ trung ương giảm sút trên toàn bộ đất nước, và tình hình càng trầm trọng thêm khi các cường quốc bên ngoài đua nhau lập các vùng lãnh thổ tự trị của riêng họ tại nhiều vùng khác nhau bên trong Trung Quốc. Tuy nhiên, dù có những ảnh hưởng tiêu cực các biện pháp này tỏ ra rất cẩn thiết ở thời điểm nguồn thu từ các tỉnh đã bị quân khởi nghĩa chiếm không còn tới được ngân khố triều đình. Cuối cùng, cơ cấu chỉ huy của Dũng binh tạo thuận lợi cho các chỉ huy quân sự của nó có cơ hội phát triển quan hệ với nhau vì khi được thăng chức, dần dần triều đình nhà Thanh phải nhượng bộ họ và cuối cùng là sự nổi dậy của các "quân phiệt".