SAIGON ĐẸP LẮM, SAIGON ƠI! SAIGON ƠI !!!
Thiếu nữ Sài Gòn
Sàigòn trước năm 1975 có là Hòn Ngọc không? Điều này còn tùy người.
Dân Sàigòn, trước năm
1975, hãnh diện về thành phố của mình, dù nhiều người vẫn thấy Sàigòn đã
có thể chưa bằng Seoul, Singapore, Bangkok. Có người, với góc nhìn nào
đó, thấy Phnom Penh, Vientiane đẹp hơn. Có người so sánh với các địa
phương khác trong nước, thích Huế, thích Dalat, thích Hà Nội hơn ,
nhưng đối với người Sàigòn thì thành phố của họ vẫn là viên ngọc họ yêu
thương. Viên ngọc Sàigòn trong mắt họ và yêu thương trong tim họ khác
với con mắt và tình cảm yêu thích của các tay thực dân ngồi salon từ thủ
đô ánh sáng Paris nhìn sang, tấm tắc khen công trình kiến tạo ở xứ Viễn
Đông của mình.
Sàigòn đẹp, nhưng Hà Nội
có thua gì? Sàigòn làm sao có được những hồ nước trong veo, mát rượi,
thơ mộng như Hà Nội? Sàigòn sao có được các công trình kiến trúc lich sử
như Văn miều, Trấn Quốc, Hồ Gươm, đền Ngọc Sơn? Và nhất là Sàigòn thời
trước 1954, không quy tụ được nhiều tao nhân, mặc khách, văn nhân, thi
sĩ như Hà Nội.
Người Hà Nội khác người
Sàigòn. Người Hà Nội có vẻ từ tốn, lịch lãm, tao nhã, tế nhị và khách
sáo. Tế nhị và khách sáo đến mức làm người Sàigòn khó chịu.
Lếch thếch chạy vào Nam,
bỏ lại gia tài, sản nghiệp, xuống tàu di cư nhận 800 đồng mỗi người khi
bước xuống đất Sàigòn, người di cư Hà Nội nhíu mày, tròn xoe mắt với
cách sống của dân địa phương. Người “Sè –Gòng” trần trùng trục, thân
dưới chỉ cuốn chiếc sà rông, co giò trên ghế, đổ cà phê loại pha bằng
vợt, cà phê “dớ”, ra dĩa, húp xì xụp. Họ xé toạc đồng bạc đề trả hay
“thối lại” 5 cắc. Tệ hại hơn nữa là đi đâu cũng nghe chửi thề.
Dân Bắc đi chợ có thói
quen mặc cả, trả giá kỳ kèo thêm bớt một hai luôn làm người bán hàng Nam
kỳ khó chịu, có khi không bán hàng cho. Lần đầu tiên mua trái cây,
người Hà Nội ngỡ ngàng, ngạc nhiên thú vị khi hỏi mua một chục, nhận
được 12 trái, có khi 14, 16 thậm chí đến 20 trái.
Cách cư xử thoải mái, bình
đẳng của người Sàigòn với mọi người cũng làm dân Hà Nội lấy làm lạ. Anh
xích lô đạp, xich lô máy hay anh chạy xe ngựa cũng không khúm múm,
không ông-con, bà-cháu với khách. Anh sống vất vả hơn, nghèo túng hơn
anh công, tư chức nhưng thoải mái không thua gì. Sáng cà phê, bánh mì,
hủ tíu, xíu mại, trưa kéo xe nằm dưới gốc cây làm một giấc no mắt, tối
dẫn cả nhà đi coi cải lương. Gầm cầu có thể là chỗ ngủ của cả nhà. Anh
ta có thể nói dóc chứ không nói xạo, không xảo trá.
Người Hà Nội di cư coi
thường dân Sègòng nói ngọng, dân Sàigòn không tinh tế nhận ra điều đó,
họ thản nhiên chấp nhận chia sẻ việc làm với hàng chục ngàn người nhập
cư, chỉ thỉnh thoảng nhướng mắt hỏi: “Hòa bình rồi, sao không ở lại Bắc kỳ, zô Ziệc-Nam đây chi zậy?”.
Người ta phân biệt dân Bắc
Kỳ cao su, dân bắc Kỳ 54. “Bắc kỳ cao su” nghèo mạt rệp, theo tây mộ
phu vào dồn điền cạo mủ. Dân “Bắc kỳ 54” phải gân cổ cắt nghĩa mãi người
ta mới hiểu được tại sao cả triệu người phải bỏ quê hương vào Nam, tha
hương cầu thực, và cho đến ngày được giải phóng, tất cả người miền Nam
mới thật sự đồng cảm và cùng khóc với dân 54.
Từ thập niên 70, chiến
tranh lan rộng, Sàigòn có khi bị pháo kích bằng hỏa tiễn, đêm nghe đại
bác, nhìn hỏa châu, dù phải nhận hàng trăm ngàn dân quê trốn chiến tranh
ồ ạt đổ về thủ đô giành việc làm, người Sàigòn vẫn thoải mái bao dung.
Nhà ổ chuột bắt đầu dựng cẳng cừ tràm trên kênh Tàu Hủ, kênh Nhiêu Lộc,
trên bãi rác. Bên cạnh các cuộc biểu tình của nhiều thành phần chống
chính phủ, người Sàigòn vẫn thoải mái: Sáng ăn cơm sườn, chiếu ăn nước
tương, tối chun vô mùng nằm nghe cải lương. Câu hát chơi, nhưng gần đúng
với người Nam Bộ thời đó.
Thời Tổng thống Ngô Đình Diệm
Sài Gòn xưa
Dưới 9 năm cai trị của một
ông tổng thống mà người ta gọi là độc tài, Ngô Đình Diệm, nguyên bộ
trưởng bộ lại thời Bảo Đại phong kiến, cả miền Nam, không riêng gì
Sàigòn, đã thay đổi. Bệnh viện, nhà cứu tế, viện dưỡng lão, quán cơm cho
sinh viên nghèo, cho người lao động chỗ nào cũng có. Ông Ngô Đình Diệm
rất chú trọng đến giáo dục. Trường học từ mẫu giáo, tiểu, trung học đến
đại học được xây dựng. Ngoài các lớp xoá nạn mù chữ, các lớp dậy văn hóa
ban đêm, còn có các trường dạy nghề, dạy ngoại ngữ. Nghề giáo được coi
trọng, lương giáo viên trung, tiểu học đủ nuôi vợ, nuôi con. Quân nhân,
công chức được khuyến khích, được tạo điều kiện dễ dàng đi học thêm,
nhiều sĩ quan được ông Diệm cho giải ngũ, cho học bổng du học. Tư lệnh
không quân, Đại Tá Nguyễn Xuân Vinh nằm trong trường hợp này. Trong các
trường đại học, sinh viên trẻ ngồi cạnh các công chức, sĩ quan già như
Thiếu tướng Nguyễn Đức Thắng. Sáng, chiều đường phố Sàigòn ngập áo trắng
học sinh. Hồi đó đồng phục nam sinh, chỉ áo sơ mi trắng, quần kaki
xanh, nữ sinh áo dài trắng, các trường tư không bắt bận đồng phục, trừ
hầu hết các trường thuộc các dòng tu công giáo, nữ sinh thường mặc robe.
Trung tâm Sàigòn không
thay đổi mấy, hình như chỉ có năm bảy dinh cơ làm mới, làm lớn ra: Dinh
Độc lập, vì bị ném bom, rạp cinéma Rex, khu thư viện Hoa Kỳ bên cạnh đó
và nhà hàng Caraven là đáng để ý. Đường Duy Tân cây dài bóng mát, đướng
tản bộ của các cặp sinh viên luật, Cường Để, Tú Xương và nhiều đường
khác vẫn như thời xa xưa, yên bình, thơ mộng, lãng mạn và quý phái. Vùng
xa trung tâm thành phố, khu Minh Mạng, Vườn Soài, Lăng Cha Cả, Xóm Mới
bắt đầu đông dân, nhà cửa khang trang nhờ dân di cư.
Tội phạm ít, diện tích
trên các trang báo dành cho tòa án, tội phạm rất nhỏ, thậm chí xe cán
chó cũng là tin. Đáng chú ý và rầm rộ nhất là tin vũ nữ Cẩm Nhung bị vợ
Trung tá Thức tạt axit đánh ghen. Vụ này khiến ông quan năm bị ngài tông
tông Diệm nóng mặt cách tuột chức tước. Các băng đảng cũng có nhưng họ
không “bẩn” như ngày nay. Các vụ giết người lại càng ít xảy ra. Phải
nói thêm là dù có bất cứ tội phạm loại nào xảy ra, vụ việc được thông
tin, không bao giờ báo chí có câu kết luận theo kiểu chỉ đạo mà các báo
chí miền Bắc phải viết:” Đấy là tàn dư của chế độ cũ”. Câu
đổ tội vu khống rẻ tiền này theo vào Nam sau năm 75 làm dân Nam Ký nóng
mặt chửi thề. Đến khoảng năm 80, cái câu tuyên truyền ngốc nghếch, bẩn
thỉu học theo cách dậy bảo của trùm tuyên truyền Đức quốc xã Joseph
Goebbels này mới chấm dứt.
Người Sàigòn hầu hết đều
thật thà và đáng tin cậy, họ thích huỵch tẹt mọi chuyện, ít để bụng
nhưng cũng dễ “nổi khùng”. Họ cũng thường không đua đòi, khoe khoang.
Quý bà, quý cô phần lớn đều vui vẻ, nền nếp, kín đáo. Ăn nói dù không có duyên, không đằm thắm, quyến rũ lắm nhưng thẳng thắn và thành thật, nhất là không chua chát, xỏ xiên.
Những nhu cầu căn bản về ăn uống, quần áo, thuốc men, tiền thuê nhà dễ chịu cho tất cả mọi thành phần.
Lương một công chức hạng thấp, một người lính, có thể nuôi cả gia đình,
giáo viên có đời sống sung túc và được xã hội kính trọng như từng lớp
trí thức. Có vài nơi cung cấp cơm trưa cho sinh viên học sinh, miễn phí, nhưng không được lâu.
Kiến trúc nhà ở đẹp mắt,
đa dạng, rộng rãi không bắt chước lẫn nhau như kiểu nhà nào cũng tháp
nhọn chọc lên trời biểu hiện tính khoe khoang, thiển cận, trọc phú.
Phương tiện giao thông vận
tải không tuyệt vời như Đài Loan, nhưng đáp ứng đầy đủ cho nhu cầu đi
lại của người dân. Ngoài hệ thống xe buyt rẻ tiền đến các nơi, các khu
dân cư đông đúc, xa trung tâm thành phố, còn có xe taxi, xích lô. Trước
xích lô máy khá nhiều, sau không hiểu sao dần vắng bóng, sau này thêm xe
lam. Có điều thú vị là sĩ quan mặc quân phục không được ngồi xích lô hay đi xe lam. Nói chung, dù với người không có xe, việc di chuyển đi lại không bị hạn chế.
Các bệnh viện công khá nhiều. Có thời nhà thương công được gọi là nhà thương thí, dù thí nhưng bệnh nhân được chăm sóc ân cần.
Rất nhiều nữ tu Công giáo lo việc chăm sóc cho bệnh nhân nghèo, ngay cả
người cùi, hủi. Bệnh viện Bình Dân trên đường Phan Thanh Giản, bệnh
viện Sài-Gòn, trên Nguyễn Huệ, bệnh Viện Gia Định trên Nguyễn Văn Học
đều là nhà thương công. Bệnh viện Bình Dân nổi tiếng hơn vì nhiều sinh
viên thực tập và các giáo sư dạy ở đây. Không có cảnh ghép đôi, ghép ba,
ăn tiền, hạch sách bệnh nhân. Bệnh viện Vì-Dân được bà TT Thiệu xin
tiền từ thiện xây, có hai phần, phần phải trả viện phí, phần miễn phí
dành cho thân nhân quân nhân. Kinh phí cho phần miễn phí lấy từ nguồn
thu của bên phải trả tiền.
Sàigòn thường có các cuộc triển lãm nghệ thuật.
Các ban nhạc quân đội thay nhau biểu diễn cuối tuần trước trụ sở quốc
hội, sau này là Hạ nghị Viện, hay tại bờ sông, trước bộ tư lệnh Hải
Quân. Nhiều cuộc hội thảo về văn chương, đọc sách thú vị. Thị trường
sách đa dạng, phong phú, nhiều ngôn ngữ. Ngoài các nhà sách lớn như Xuân
Thu, Khai Trí còn có rất nhiều quầy sách, báo, tạp chí trên đường Trần
Hưng Đạo, Nguyễn Huệ. Đó cũng là những điểm cho đám sinh viên, học sinh
đến “xem cọp” những ấn phẩm mới nhất, nhiều khi đứng đến cả giờ để ghi
ghi, chép chép. Nói đến “xem sách cọp” nhớ đến “học cọp”.
Sài gòn xưa có nhiều điểm học luyên thi, thi tú tài 1, 2. Đông học sinh
lắm, nhưng đám học cọp cũng không ít, họ vào lớp, thấy bóng giám thị
đến là dọt ra. Các thày biết ai học cọp cũng kệ, việc đó của thày giám
thị.
Các hoạt động chính trị
rất phong phú, nhiều đảng phái, nhiều nhóm như nhóm Caraven, nhiều
chính khách salon. Các cuộc biểu tình có lúc diễn ra như cơm bữa.
Sinh viên, học sinh biểu tình xong quay về trường học, có sức lần sau
đi nữa. Đậu học tiếp, rớt đi lính rán chịu, không ai cản trở tự do của
họ.
Đám tang đi qua, xe cộ đều
tránh, người đi đường ngả mũ, cúi đầu chào vĩnh biệt. Đó cũng đánh giá
được trình độ văn hóa của người Sàigòn.
Luật pháp và chính phủ còn
một số bất cập, nhưng được đánh giá là cố gắng đem lại một nền dân chủ
pháp quyền cho dân và cố gắng làm cho đời sống người dân khá hơn. Cảnh
sát dù không được dân ưa, nhưng không đến nỗi bị khinh ghét.
Thời Bí thư Thăng
Sài Gòn nay
Trong Cổ Học Tinh Hoa,
Nguyễn Văn Ngọc kể chuyện một người đàn bà đứng khóc nỉ non ở chỗ bờ
đầm. Khổng Tử bảo học trò hỏi vì cớ gì mà khóc.
Người đàn bà nói: “Độ trước tôi cắt cỏ thi, tôi đánh mất cái trâm cài đầu bằng cỏ thi, cho nên tôi khóc.”
Khổng Tử hỏi: “Cắt cỏ thi, mà mất cái trâm bằng cỏ thi, thì việc gì mà phải khóc?“
Người đàn bà nói: “Không
phải vì tôi đánh mất cái trâm cỏ thi mà tôi khóc; tôi sở dĩ khóc, là
tôi thương tiếc một vật cũ, dùng đã lâu, mà ngày nay không sao thấy được
nữa.”
Ông bí thư Thăng hai lần
ngỏ ý muốn lấy lại vị trí và danh tiếng Hòn Ngọc Viễn Đông cho Sàigòn,
nhưng dứt khoát, với người Sàigòn, còn đâu người xưa, tình cũ. Còn đâu
hòn ngọc của họ, trừ phi họ tìm lại được.
Xem lời bàn của Nguyễn Văn Ngọc:
“Cái gì đã là của
mình, mình có bụng yêu, mà lỡ khi mất, thì về sau dù có được cái khác
giống như thế, hay hơn thế, mình cũng không thể sao yêu cho bằng.
Thường, lại chỉ vì thấy cái mới mà hồi nhớ đến cái cũ, sinh ra chạnh
lòng, nên câu ta thán, có khi ngậm ngùi thương khóc nỉ non. Tại sao vậy?
Tại đối với mình, cái của mất không chỉ có giá của no mà thôi, lại hình
như còn có một phần tâm hồn mình hay tâm hồn người để lại cho mình ngụ ở
trong nữa…”
P.N.L.