theo E mail cuả bạn và trng web sau:
Cuộc chiến Việt Nam đã chấm dứt từ bốn mươi năm về trước.
Người Việt Nam Tự Do ở miền Nam đã mất quê hương đúng bốn mươi năm rồi.
Mặc dù đã chọn nước Úc là quê hương mới, nhưng mỗi năm, cứ đến Tháng Tư là
tôi cũng như bạn đều cảm thấy bồn chồn, nhớ lại quê hương xưa, nhớ thành
phố cũ, nhớ từ ngôi trường Tiểu Học, Trung Học, Đại Học, nhớ Quân Trường
Thủ Đức, nhớ Quân Trường Dục Mỹ, nhớ núi đồi Pleiku, nhớ người bạn đã cùng
một thời chiến đấu, có người còn đó, có người đã mất đi:
Năm năm cứ đến Ngày Oan Trái
Ta thắp hương lòng để nhớ thương.
Xa nửa địa cầu thương nhớ mãi
Ôi những tàn xương ở cố hương..!
(Thục Vũ.)
Để hồi tưởng lại quá khứ, chúng ta thường mở lại những giòng thơ, những
bản nhạc cũ. Đó là lý do tôi đi dự buổi “Chiều Nhạc Thính Phòng – Tưởng
Niệm 40 năm – 1975 – 2015”
Bạn ạ, bản nhạc mà tôi thích nghe nhất, lời nhạc gợi lại cho tôi nhiều nhớ
nhung nhất, tôi mời bạn cùng nghe lại với tôi:
“Anh đến thăm, áo anh mùi thuốc súng...”
Chỉ một câu hát đó thôi, đã làm cho tôi vẽ ra hình ảnh oai hùng, lãng mạn,
tình tứ và nên thơ của người lính trẻ, đã chiến đấu oai hùng nơi trận
tuyến. Khi chiến trận vừa kết thúc, được thưởng vài ngày phép để về thăm
nhà, anh không kịp tắm rửa thay bộ chiến y mới, chỉ kịp tháo bỏ sợi dây ba
chạc, nhờ bạn bè cất khẩu súng vào kho, anh đã vội vàng lên đường ngay cho
kịp chuyến xe tiếp tế vừa mới lên hồi sáng.
Về đến nhà, người yêu nghe tiếng gọi của anh, đã thật là ngạc nhiên, hớn
hở ra mừng đón... ôm lấy anh... áo anh còn đầy mùi thuốc súng...
Hào hùng thay! Lãng mạn thay!
Chỉ cần một lời thơ, một câu hát, mà người nhạc sĩ đã vẽ lên hình ảnh của
một người Lính Trẻ, vừa làm tròn bổn phận người Trai Thời Chiến, vừa làm
vừa lòng người yêu nhỏ ở hậu phương.
Tại sao tôi biết người Lính đó còn trẻ?
Đó là vì, anh đã hối hả đến thăm người yêu, mặc dù:
“Ngoài trời mưa lê thê, qua ngàn chốn sơn khê...”
Nếu người lính đã lớn tuổi, và đã có vợ con rồi, anh ta không có vội vã
như vậy. Trời đang mưa tầm tã, đường về lại cong queo qua ngàn chốn sơn
khê, về làm chi cho mệt, lỡ tài xế lạc tay lái, đạn bắn không chết, lại
chết vì xe lật lãng nhách! Hãy đi tắm rửa thay quần áo cho khỏe rồi sáng
mai tàn tàn đi về nhà có phải là có lý hơn không!
Tôi ngồi im lặng như chưa bao giờ im lặng như vậy (Nhạc thính phòng mà!
Phải im lặng mới nghe được từng lời ca tiếng nhạc chứ!) để tiếp tục nghe
bản nhạc tuyệt vời này. Người ca sĩ, chị Dương Hòa, với giọng hát trong
trẻo, uốn theo từng lời ca nốt nhạc, giọng chị cao vút lên:
“Anh như làn gió... bay ngược xuôi,
Theo đường mây... tóc tơi bời... lộng gió bốn phương...”
Người lính trẻ về thăm người yêu được vài giờ ngắn ngủi rồi lại phải ra đi
như một làn gió, bay ngược, bay xuôi, theo đường của mây trôi, mái tóc
bồng lên vì lộng gió bốn phương. Nhưng dù có bay ngược bay xuôi, dù có gió
lộng mưa nguồn, người trai vẫn chỉ có một tấm lòng yêu nước non và chung
thủy với người yêu:
“Nước non còn đó, một tấm lòng,
Không mờ phai... cùng năm tháng...”
Người nhạc sĩ nào mà lại tài ba quá như vậy! Nhạc vừa hay, lúc thì cao vút
lên tận trời mây, lúc thì chùng xuống mãi tận đáy của con sông, ngọn suối.
Lời ca lại vừa tình tứ lại vừa oai hùng như vậy?
Người nhạc sĩ này phải là một người Lính!
Không những là Lính, anh phải là một người Lính Chiến Đấu, ở nơi trận
tiền.
Đúng! Bạn đoán đúng rồi đó.
Người nhạc sĩ tài hoa này là Đại Tá Nguyễn Văn Đông, là nhà thơ Phượng
Linh, Phương Hà, nhà viết tuồng cải lương Đông Phương Tử...
Nguyễn Văn Đông, với ba lô nón sắt hành quân.
Nguyễn Văn Đông sinh năm 1932, tại Quận Nhất, Sài Gòn.
Năm 1946, gia đình gửi ông vào trường Thiếu sinh quân Việt Nam ở Vũng Tàu
(14 tuổi). Tại đây, ông vừa học làm lính, vừa được học nhạc với các giáo
sư âm nhạc của Học viện Âm nhạc Quốc gia Pháp sang giảng dạy. Chỉ sau một
thời gian ngắn sau, ông trở thành một thành viên của ban quân nhạc thiếu
sinh quân, học cách sử dụng nhiều loại nhạc cụ khác nhau. Năm 16 tuổi, ông
đã có những sáng tác đầu tay, bản nhạc “Thiếu sinh quân hành khúc” đã được
chọn làm bài hát chính thức của Trường Thiếu Sinh Quân.
Sau khi tốt nghiệp trường Thiếu sinh quân Vũng Tàu, năm 1951, ông được cử
theo học khóa 4 trường Võ bị Sĩ quan Vũng Tàu và tốt nghiệp thủ khoa với
cấp bậc Thiếu úy vào năm 1952. Năm sau, ông được cử đi học khóa huấn luyện
“Ðại đội trưởng” tại Trường Võ Bị Đà Lạt. Năm 1954, ông được gửi ra Hà Nội
theo học khóa “Tiểu Đoàn Trưởng” tại Trường Chiến Thuật Hà Nội. Ra trường,
ông nhận chức vụ Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn trọng pháo 553, trở thành Tiểu
đoàn trưởng trẻ nhất của Quân đội Quốc gia Việt Nam khi mới 24 tuổi.
Sau Hiệp Định Genève 1954 chia đôi đất nước, ông được chuyển vào Nam, phục
vụ tại Phân khu Đồng Tháp Mười với chức vụ Trung úy Trưởng phòng Hành
quân. Thời gian này, ông còn kiêm nhiệm chức Trưởng phòng 3 (Tác chiến)
của Phân khu, dưới quyền Đại tá Nguyễn Văn Là, tham gia Chiến Dịch Thoại
Ngọc Hầu 1956 do Tướng Dương Văn Minh làm Tư lệnh chiến dịch.
Những bài hát như Phiên Gác Đêm Xuân, Chiều Mưa Biên Giới và Mấy Dặm Sơn
Khê đều đã được ông sang tác ở nơi trận tiền miền Bắc và Đồng Tháp Mười
miền Nam, khi ông còn rất trẻ, mới có người yêu, vì thế, những bản nhạc
này mới đầy... Mùi Lính, lãng mạn và chứa đầy tình quê hương đất nước.
Hai MC chính trong buổi văn nghệ, một là Quốc Việt, một người mà đa số dân
tỵ nạn chúng ta đều biết anh là ai, không cần nhìn mặt, chỉ cần nghe cái
giọng trầm ấm phát lên là chúng ta đã biết chàng là ai. Lần này, anh không
đọc thông tin nữa, mà giới thiệu từng bài hát với lời lẽ thật là chau
chuốt mà trước đây, chỉ có Hà Huyền Chi, Văn Quang, Phan Nhật Nam viết mà
thôi.
CHUYỆN XƯA NGÀY ẤY THÁNG TƯ
Cuộc chiến Việt Nam đã kết thúc bốn mươi năm qua rồi, vết thương do chiến
tranh tạo ra tưởng chừng như đã được phương thuốc thời gian xóa nhoà đi
rồi. Thế nhưng, vì bọn Việt cộng xâm lược đã không ngừngtạo ra quá nhiều
tang thương máu lửa cho đất nước, cho người dân Việt, cho người Lính Việt
Nam Cộng Hòa, làm cho người dân Việt, người Lính Cộng Hòa không thể nào
quên được những hành vi giết chóc, trả thù dã man, những hành động cướp
đất cướp nhà, mà lúc nào chúng cũng mở miệng ra là đem lại cơm no áo ấm,
hạnh phúc nơi thiên đàng Xã Hội Chủ Nghĩa.
Nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông là một điển hình, sau ngày mất nước, ông và hầu
hết những người Lính Cộng Hòa đã bị bắt đi tù trong cái nhà tù mà bọn Việt
cộng gọi là “Trại Học Tập Cải Tạo”, nhưng mục đích chính của chúng là để
cho người Lính Cộng Hòa chết dần chết mòn giữa rừng sâu nước độc. Kết quả
là sau hơn 9 năm ở trong tù, vì bị làm việc lao động quá sức, vì bệnh tật
mà chúng không cho thuốc men điều trị, vì bị khủng bố tinh thần, Đại Tá
Đông chỉ còn da bọc xương, chờ chết. Tới lúc đó, bọn chúng mới gọi người
nhà lãnh ông về để chờ đem chôn. Khi được chính phủ Hoa Kỳ nhận cho đi
định cư theo chương trình HO, ông đã không thể nào nhúc nhích tay chân,
nên đành xin ở lại chờ chết trên quê hương nơi ông sinh ra. Khi thuốc tây
không trị bệnh cho ông được, gia đình ông không còn con đường nào khác
ngoài việc uống đại liều Thuốc Bắc, Thuốc Nam, đằng nào cũng chết. Nhưng,
may mắn thay, căn bệnh thấp khớp, co quắp bắp thịt làm cho tay chân ông
không cử động được, đã từ từ bớt đi, cho đến nay, mặc dù tính mạng ông
không còn bị đe dọa nữa, ông cũng chỉ có thể đi đứng chút đỉnh mà thôi, và
không bao giờ có thể sáng tác nhạc trở lại nữa (Tài liệu lấy trên nhiều
nguồn internet).