Dieses Blog durchsuchen

Montag, 20. Juli 2015

ÁO NGHĨA THƯ UPANISHADS Shri Aurobindo bình giải Thạch Trung Giả dịch

MN:Một tác phẩm cuả đạo sư Shri Aurobindo do nhà dịch giả Thạch Trung Giả dich! MN đã đọc qua khá lâu giờ mới tình cờ nhớ lại qua bài viết về tín nguỡng của nguời Chàm và đạo Bà La Môn(Brahma) mà họ tin, và thấy một điểm lạ cuả Nhất Nguyên thế giới (Veda=Vệ Đàn đà))cũng không khác gì lắm với suy tư cuả Phật Giáo đại thừa! 
MN xin hân hạnh giới thiệu với các bạn thân mến  :)
hình bìa sách Áo Nghĩa Thư (Upanishads)cuả đạo sư Shri Aurobindo dịch bởi học giả Thạch Trung Giả do nhà xuất bản An Tiêm ấn hành (1970)
  • Phân loại : Văn Hóa Phương Đông
  • MCB : 12010000009707
  • OPAC :


ÁO  NGHĨA  THƯ

UPANISHADS

Shri Aurobindo bình giải

Thạch Trung Giả dịch

An Tiêm

 PHÁT ĐOAN TỪ

Uống nước uống tận nguồn.

Một công trình jkhảo cứu dù tinh vi đến đâu cũng không thể nào thaythế được kinh văn cội gốc; Giỏi lắm chỉ là một bộ xương khô so với con người sống thật có linh hồn long lanh trong ánh mắt và tỏa ra trong hơi thở. Ấy là chưa kể những công trình phản bội chiếm đến chín mươi phần trăm số sách khảo cứu. Xin kể một thí dụ.

Trước khi đọc thẳng vào những mảnh tản văn của Parménide, triết gia vĩ đại phái Elée, tôi đã tìm hiểu qua những bộ triết sử và nghiên cứu của những học giả Tây Phương đã thừa hưởng công trình vài chục thế kỹ. Đến khi đọc thẳng vào những mảnh tản văn, tôi đi từ sửng sốt này đến sửng sốt khác vì mọi sách khảo cứu mà tôi được biết đều phản bội, lật ngược lại chủ ý sâu xa của Parménide, của phái Elée, một triết gia không để lại nhiều sách vở nhưng được coi là một trong mấy cơ sở lớn của tư duy Hy Lạp, của thế giới Tây-phương. Thời gian tôi dùng để đọc dăm trang khảo cứu là một vài giờ còn đọc thẳng vào vài trang bản văn là mười lăm đêm, mỗi đêm 4 tiếng đồn hồ tức là 60 giờ. Đó là một chuỗi hàm số liên tiếp mà người đọc phải tự giải, nhưng giải xong thì thấy cả núi sách khảo cứu dầu đúng cũng không đưa vào chiều sâu, vào cái thần, ấy thế mà lại giải sai.

Nếu Parménide với triết phái Elée, được người Tây-phương khảo sát nhiều thế kỷ vì tự coi là thừa kế triết học Hy Lạp, mà còn bị phản bội như thế thì những triết thư Ấn Độ như Upanishads được khảo sát ra sao, ta có thể duy đoán được.

Người Việt ta vài ngàn năm quen với một dòng của triết đạo Ấn Độ là Phật giáo, nhưngvề những dòng khác thì mới bắt đầu từ vài chục năm nay. Cho đến bây giờ những bộ căn bản nhất như Upanishads cũng chỉ được trích dẫn vài câu đã thành sáo ngữ trong vài cuốn khảo cứu. Đã đến lúc uống nước uống tận nguồn. Bởi thế cho nên chúng tôi lựa chọn ba bộ tiêu biểu được đạo sư có uy tín người Ấn Độ là Shri Aurobindo vừa thừa hưởng được truyền thống, vừa có căn bản triết học Tây-phương để bình giải, trình bày cho chúng ta thời bấy giờ hiểu nổi.

Ấn Độ có ba dòng lớn về triết đạo là: Bà la môn giáo, Kỳ-na giáo, Phật giáo. Trong lòng Bà-la môn lại có sáu phái mà quan trọng nhất là hai phái Số luận tức là Sâmkhya, Vệ-Đàn-Đà tức Védânta nghĩa là Viên thành Vệ Đà.

Gạt ra ngoài vấn đề so sánh giá trị nội tại của hai phái này, mà chỉ nói quan niệm của đa số người Ấn cũng như học giả thế giới thì Vệ Đàn Đà được coi như tiêu biểu cho tư tưởng Ấn- Độ, là cái phần tinh túy nhất mà văn hóa Ấn-Độ cung hiến cho nhân loại. Đó là tư tưởng nhất nguyên coi vũ trụ, nhân loại, Thượng Đế chỉ là một, chỉ có một Đại Ngã, Đại Hồn. Bởi thế cho nên Upanishads nhắc đến Thượng Đế hay đấng Chủ Tể thì ta chớ nên lẫn với nhất thần giáo mà chỉ coi là một lối nói tạm để bị vượt ngay trong một bộ sách như phép giải toán lập số khử số để đi đến đáp số cuối cùng. Nó là nhất nguyên luận mà người Tây phương gọi là phiếm thần giáo, mà Phật giáo Đại thừa gọi là nhất như thuyết. Védanta với Đại thừa cùng một dòng tư tưởng, đó là điều hiển nhiên tuyệt đối.

Kinh điển nòng cốt của Védánta là những bộ Upanishads. Chúng tôi dịch là Áo Nghĩa Thư với danh từ thông dụng từ lâu của những nhà Phật học nhưng giá trị của nó không ở dưới những bộ được gọi là kinh như Tứ Thư so với Ngũ Kinh. Là vì bên Ấn Độ, những bộ được gọi là Sùtras, vẫn được dịch là kinh, chưa hẳn giá trị hơn những bộ không gọi là Sùtras. Bởi thế những bộ như Védas tôn quí bậc nhất mà không gọi là Sutras. Và người ta đã có lý khi dịch là Kinh Vệ Đà. Vậy Áo Nghĩa Thư hay Áo Nghĩa Kinh cũng vậy.

Những bộ này được xếp sau những bộ Vệ Đà nên được coi là Liễu Kết Vệ Đà hay Viên Thành Vệ Đà với hai nghĩa đen và bóng: nó được coi là rút tỉa tinh hoa của Vệ Đà, đào sâu mở rộng cái trực giác thần diệu nhất giữa nhiều trực giác ở Vệ Đà phong phú như cái mỏ. Đó là trực giác về nhất nguyên luận hay nhất như thuyết.

Những bộ Áo Nghĩa Thư thật nhiều, khởi từ trước hay ngang thời Phật Thích Ca đến cuối Trung Cổ, nhưng những bộ căn bản được coi là có mười hai, mà ba bộ sau đây ở trong số đó. Những tác giả thường vô danh, những vị được nhắc đến ở bộ này bộ nọ là những bậc truyền miệng được người ta ghi lại thêm bớt mà có vị chỉ là nhân vật huyền thoại.

Những bộ này thường được coi là thần kỳ bí hiểm, những bản dịch nhiều khi khác nhau đến mực đưa ra những nghĩa không liên quan gì với nhau. Nên chúng tôi lựa chọn những bọ do đạo sư người Ấn dịch ra Anh văn, hơn hẳn những bản dịch của những học giả Tây phương mà tôi có thể đối chiếu. bản dịch tù Anh ra Pháp về hai bộ Isha và Mundaka do ông Jean Herbert đã được đạo sư Aurobindo hiệu chính, căn bản dịch Kena so ông Jean Herbert cống tác với hai bạn là Camille Rao và René Daumal tuy không được đạo sư hiệu chính nhưng chắc chắn đáng tin cậy để tái dịch lại ra Việt vì ông Jean Herbert đã cả đời hiến mình cho việc dịch, khảo và truyền bá triết đạo Ấn độ, có tiếp xúc với nhiều bậc thầy Ấn hiện sống.

Chỉ xin có đôi lời về lối dịch của chúng tôi. Tiếng Tat, Phạn ngữ, được dịch sang Pháp là chữ Cela, Cái ấy, để ám chỉ Chân Thể mà người nghe được coi là đã ngầm hiểu. Người Việt ta đã quen từ lâu với tiếng Chân Như nên chúng tôi dịch là Chân Như. Đó là trong cuốn Isha nhưng sang cuốn Kena thì tôi phải dịch sát là Cái Ấy vì Chân Thể trong cuốn này được coi như là một nghi vấn, một ẩn số đối với chư thần, mãi đến cùng mới nhận ra.

Soham, tiếng Phạn, dịch ra Pháp ngữ là Je Suis Lui – chúng tôi dịch: Ta là Chân Như cũng vì lẽ trên.

Tal tvam asi: - Tu es Cela – chúng tôi dịch : Người là Chân Như cũng vì lẽ trên.

Tiếng Être thường được dịch là Hữu Thể mà theo Parménide, cổ triết gia Hy Lạp người đã xây dựng toàn bộ học thuyết trên ý niệm này, thì thuộc tính lớn nhất của Hữu Thể là hằng hữu, bất sinh bất diệt, vậy chúng tôi dịch là Hằng Hữu để phân biệt với être thường không viết hoa dịch là hữu thể.

Tiếng Existence có hai nghĩa chính là thực hữu hay hiện hữusinh tồn, chúng tôi dịch thành hữu tồn, tuy cũng có khi là sinh diệt, khi là sinh hóa, khi là sáng hóa, vừa theo tinh thần triết học Ấn-Độ vừa uốn theo sắc thái, nhịp độ tư tưởng rất biến hóa linh động của Aurobindo.

Tiếng Dissolution thường được dịch là hòa tan hay tiêu diệt chúng tôi dịch là tiêu nhập theo tinh thần ở đây.

Tiếng Jeucó nhiều nghĩa, mà kể ba là trò chơi, sự vận dụng, sự xếp đặt xảo diệu, chúng tôi dịch là trò diệu hóa hay diệu hóa lực theo hệ thống tư tưởng của Aurobindo vẫn gọi bằng tiếng Phạn là Lilâ hay Mâyâ tức Huyễn hóa.

Egoisme thường được dịch là vị kỷ, vị ngã, nhưng tư tưởng Ấn độ còn suốt nguồn gốc vị ngã là chấp ngã vậy chúng tôi dịch là ngã chấp. Mental theo nghĩa của Tây triết là tâm tríMentalitétâm tính, nhưng ở đây theo Ấn triết phải dịch là phàm thứcthức tính đối với siêu thức tuy đổi chỗ có thể dịch  đại khái là tâm thức hay thứctâm tính.

Đó chỉ là một vài trong nhiều thí dụ về lối dịch của chúng tôi không thể hoan toàn y theo những tự điển hiện hành, nhưng có lẽ độc giả cũng thừa thông cảm.

Ngoài ra cũng nên nhắc đến một danh từ thường dùng đến là Phạm Thể dịch ở tiếng Phạn Brahman. Theo quan niệm Ấn Độ thì Brahma là thần linh tối cao đã sinh ra vũ trụ, mà Brahman là bản thể của Brahmâ cũng như chư thần cũng như chúng ta cũng như vũ trụ theo lẽ nhất nguyên, vậy nếu Brahmâ đã được dịch từ mấy ngàn xưa là Phạm Thiên thì bây giờ chúng tôi dịch Brahman là Phạm Thể.

Về cú pháp, nhiều chỗ mông lung, hàm súc vì huyền diệu mà ông Jean Herbert cùng các bạn phải vượt khuôn khổ của Pháp ngữ, vốn nổi tiếng là minh bạch khúc chiết, để phản ảnh với những câu như buông lơi, lỏng lẻo nên phải đọc kỹ bình giải mới quyết nghĩa được. Xem kinh văn, nếu thấy những chỗ bí hiểm thì độc giả không nên khổ công tìm hiểu mà cứ tạm để đó, tiến đến phần bình giải sẽ vỡ ra.

Đọc thẳng một bộ như thế này, quí vị sẽ thâm nhập hơn là loanh quoanh mãi ở vành ngoài với những bộ khảo cứu có công dụng giúp ta bước đầu với những ý niệm đại khái như bộ xương khô so với người sống thực



                                                                 THẠCH TRUNG GIẢ


MỤC LỤC

Phát đoan từ                                                                                                            
Isha Upanishad
Thiên Đế Áo Nghĩa Thư
Kinh văn                                                                                                                 
Chú thích                                                                                                                 
Phân tích                                
Kết luận và toát yếu                                                                                                
Kena Upanishad
Nghi vấn Áo Nghĩa Thư
Kinh – văn                                                                                                              
Bình giải                                                                                                                  
Mundaka Upanishad


tài liệu tham khảocho các bạn:
http://www.thuvienphatgiao.com/buddhistbook/detail/book-633/Ao-nghia-thu-UPANISHADS.html 

Gặp Em Đêm Hội Ramưwan - nhạc Chàm - Amư Nhân

MN:một bài ca cuả nguời Chàm ,rất lãng mạn ,đầy tình yêu thuơng, yêu thuơng  dân tộc,nòi giống quê huơng ,..(chứ không như bọn ngu đần cộng sản hà nội ..quê huơng tuơi đẹp dể thuơng mà bọn chúng nở bán cho bọn Chệt nhơ bẫn ..tàn ác...)..mà MN đuợc hân hạnh nghe bằng tiếng Việt yêu thuơng cuả mình ,làm MN cảm động ! các bạn có thấy xúc động như MN không !? :)

                       Video:Gặp Em Đêm Hội Ramưwan - nhạc Chàm - Amư Nhân

                                     tháp Chàm ở Mỹ Sơn
                                        Bia Po Klaung Garai
                       Trà áo sau lể cuới
thiếu nữ Chàm
chuẩm bị lể cuới theo phong tục Chàm
chuẫn bị lể cuới theo phong tục Chàm
ngày tảo mộ
                               Viếng mộ tổ tiên


Tôn giáo của người Chàm
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Người Chàm theo hai tôn giáo chính là Bà la mônHồi giáo. Trong Hồi giáo lại chia ra Hồi giáo cũ (Bà ni) và Hồi giáo mới (Ixlam). Hai tôn giáo Bà la môn và Hồi giáo tồn tại độc lập, và trải qua quá trình lịch sử, đã hòa nhập với tín ngưỡng bản địa, tạo nên một thứ tôn giáo địa phương. Ngoài ra còn một số ít người Chăm còn theo đạo Công giáo và Tin Lành. Trong quá khứ Phật giáo từng đóng một vị trí khá quan trọng trong đời sống tinh thần của người Chăm, tồn tại và phát triển song song với đạo Bà la môn từ đầu thế kỷ trước công nguyên đến thế kỷ thứ IX
Bà la môn (Bà chăm)-Brahma
Đạo Bà la môn du nhập vào Chăm Pa từ khoảng thế kỷ thứ II, III, tồn tại và biến đổi trong cộng đồng người Chăm cho đến ngày nay. Sử sách Trung Quốc cho biết, đạo Bà la môn du nhập vào Chăm Pa rất sớm. Ba trong bốn bia ký bằng chữ Phạn có niên đại thế kỷ VII được tìm thấy ở Quảng Nam và Phú Yên ở triều đại Bhadresvaravamin cũng ghi nhận điều này. Đạo Bà la môn được truyền bá đến Chăm pa nói riêng và Đông Nam Á nói chung bằng hai con đường: đường thủy và đường bộ. Đường thủy thì từ cảng Coromandel thông qua eo biển Malaka (Mã Lai), và đường bộ thì từ Atxan đi vào Mianma rồi qua khu vực đồng bằng sông Mêkông. Người Chăm gọi đạo Bà la môn (đã Chăm hóa) là Bà chăm. Đạo Bà chăm phổ biến ở Ninh Thuận và Bình Thuận
  • Hệ thống chức sắc Bà la môn
Hệ thống chức sắc Bà la môn có hai tầng lớp:
_Chức sắc tu sỹ Pà xế (Passeh)
_Chức sắc dân gian (Gồm các nghệ nhân sử dụng nhạc lễ, trang trí, thầy cúng, thầy pháp).
Tu sĩ Pà xế là những chức sắc tôn giáo Bà la môn, có địa vị cao nhất trong xã hội. Pà xế là những người trí thức, họ biết chữ Chăm, lưu giữ các sách cổ Chăm quy định về các nghi thức hành lễ, hiểu biết tập tục, truyền bá và thực hiện các nghi thức tôn giáo. Tu sĩ Pà xế được duy trì trong xã hội Chăm theo cha truyền con nối. Về hình thức bên ngoài tu sĩ Pà xế để tóc dài búi tó, không để râu. Trên đầu các thầy Pà xế luôn đội khăn vải màu trắng, không bao giờ đi giày, chỉ đi dép nhựa hoặc đi chân đất.[1] Tu sỹ Pà xế được quyền lấy vợ, sinh con.
  • Hệ thống giáo lý, giáo luật:
Từ xa xưa, người Chàm Bà la môn không còn liên hệ với cộng đồng Ấn Độ giáo trên thế giới. Vì vậy, tôn giáo Bà la môn của người Chăm không có hệ thống giáo lý, giáo luật rõ ràng. Giáo lý, giáo luật của người Chăm Bà la môn là các kinh luật Bà la môn được các tăng lữ Pà xế phiên dịch ra tiếng Chăm, ghi lại bằng chữ Chăm trong các thư tịch cổ, truyền lại từ đời này qua đời khác và được thay đổi cho phù hợp với thực tiễn tín ngưỡng và đời sống xã hội Chăm như bộ kinh Upanishad (Áo nghĩa thư), Rigvêđa, Samavada (ca vịnh Vệ đà), Yajurvada (tế tự Vệ đà) và Athrvamda (gồm bùa chú và khấn trừ tà ma)...
  • Hệ thống thần linh
Tôn giáo Bà la môn vốn là tín ngưỡng đa thần như thần mặt trời, thần gió, thần mưa, thần sấm sét, thần núi, thần sông, thần cây, thần rừng... Tuy nhiên, hệ thống thần linh của người Chăm Bà la môn không theo một hệ thống rạch ròi như Bà la môn nguyên thủy mà đã được bồi đắp nhiều lớp đời này qua đời khác thông qua sự cúng tế, cầu nguyện. Đền tháp theo tôn giáo Ấn Độ là để thờ các đấng thần linh của đạo Bà la môn, đền tháp người Chăm thì đã biến thể như tháp Poklongarai thờ vua Poklongarai [2], tháp Pôrômê thờ vua Pôrômê[3]...
  • Hệ thống nghi lễ
Người Chăm Bà la môn có hệ thống nghi lễ phong phú, đa dạng và diễn ra quanh năm. Có thể chia ra các nhóm hệ thống nghi lễ nông nghiệp, hệ thống nghi lễ vòng đời và hệ thống nghi lễ mang tính cộng đồng tôn giáo. Lễ Ka tê là lễ hội lớn nhất của người Chăm Bà la môn tổ chức vào ngày mùng 1 tháng 7 Chăm lịch hàng năm.
Hồi giáo cũ (Bà ni)
Trong các thế kỷ XII-XVI, hoạt động hàng hải của người Chăm phát triển mạnh họ tiếp xúc mua bán với các nước Indonesia, Malaysia, Malacca (là những nước theo Hồi giáo) Hồi giáo bắt đầu vào Chăm Pa theo con đường này. Trong giai đoạn đầu sự truyền đạo mới chỉ xảy ra ở cấp thượng lưu xã hội (triều đình và các người quyền quý), sau năm 1471 (năm thủ đô Vijaya thất thủ, quân Chiêm bị bắt sống hơn 3 vạn người, bị giết 4 vạn người, vua Chiêm là Trà Toàn bị bắt đem về Đại Việt, kinh đô bị phá hủy hoàn toàn), niềm tin vào Bà la môn của người Chăm Pa giảm sút, một bộ phận người Chăm Pa chuyển sang Hồi giáo. Người Chăm gọi Hồi giáo (đã Chăm hóa) là Bà ni. Đạo Bà ni phổ biến ở Ninh Thuận và Bình Thuận.
  • Hệ thống thánh đường
Ngày xưa, thánh đường làm bằng nhà tranh, sau này được xây cất bằng gạch ngói, hiện nay nhiều thánh đường từng bước được tu bổ khang trang, hiện đại theo phong cách thánh đường nhưng không hoàn toàn chịu ảnh hưởng của phong cách các thánh đường Hồi giáo quốc tế, thánh đường Bà ni còn nơi hội họp của các chức sắc, các nhân sỹ trí thức để bàn bạc việc làng.
  • Hệ thống chức sắc Bà ni
Mỗi thánh đường Bà ni đều có đội ngũ chức sắc phụ trách các sự vụ tôn giáo. Tầng lớp tu sỹ Bà ni được gọi chung là "thầy char". Tu sỹ Bà ni có trang phục: áo quần màu trắng, áo dài, cạo tóc (ngược lại với các tu sĩ Bà la môn tóc búi tó), bịt khăn và để râu. Đối với tín đồ Bà ni, thầy Char rất được nể trọng. Ông vừa là người thay mặt cho thánh A la làm các nghi thức tôn giáo, vừa là người thay mặt cho người Chăm của cả hai tôn giáo Bà la môn (Bà chăm) và Bà ni làm chủ nhiều nghi lễ mang tính chất dân gian của người Chăm Bà la môn và Bà ni.
  • Hệ thống thần linh và hệ thống giáo lý giáo luật
Từ tín ngưỡng đa thần của đạo Bà la môn, người Chăm Bà ni chuyển sang tín ngưỡng nhất thần, chỉ thờ phụng thánh A la và thiên sứ Mô ha met. Tuy nhiên, trong tiềm thức của người Chăm Bà ni vẫn sâu đậm quan niệm đa thần vì vậy người Chăm Bà ni ngoài việc cầu nguyện Pô Âu lóa (A la), vẫn cầu nguyện các thần linh từ xa xưa như các thần thiên nhiên: thần Mưa, thần Biển, thần Núi, thần Nước...
Hồi giáo Bà ni không có sự liên lạc với Hồi giáo quốc tế và cũng không chấp nhận Hồi giáo mới (Ixlam). Vì vậy, hệ thống giáo lý giáo luật của tôn giáo Bà ni hiện nay đã khác xa với hệ thống giáo lý giáo luật của Hồi giáo quốc tế. Tuy vậy, hệ thống giáo lý giáo luật của Bà ni cũng từ kinh Coran mà ra
  • Hệ thống nghi lễ
Đạo Bà ni thờ cúng khác với Hồi giáo chính thống, tín đồ Bà ni không làm lễ năm lần mỗi ngày. Tháng chay Ramưvan là thời gian quan trọng nhất của người Bà ni, Nhưng người theo Bà ni không phải nhịn ăn vào ban ngày như luật Hồi giáo quy định. Chỉ có các tu sỹ phải nhịn ăn ba ngày đầu của tháng Ramưvan. Trong tháng Ramưvan, các tu sỹ phải tu ở thánh đường, không được về nhà và chỉ được ăn những lễ vật dâng cúng, khi ăn cơm chỉ được dùng tay.
Quan hệ giữa Bà chăm và Bà ni
Để giải quyết sự cạnh tranh của 2 tôn giáo, vua Ppo Rome (1627-1651), một vị vua anh minh của Chăm pa, đã đưa quan niệm "nhất thể lưỡng hợp" để dung hòa hai cộng đồng tôn giáo này, cho rằng người Chăm theo tôn giáo Bà la môn (Bà chăm) được gọi là Ahier thuộc dương, người Chăm theo Hồi giáo (Bà ni) được gọi là Awal thuộc âm. Theo quan niệm này thì hai cộng đồng tôn giáo "tuy hai mà một", sống gắn bó và kết hợp với nhau như nam và nữ, chồng và vợ. Đạo Bà la môn tiếp tục thờ đa thần nhưng phải thờ phượng thêm Đấng Allah (của Hồi giáo), và ngược lại đạo Bà ni vừa phụng thờ Allah (Ppo Uwlwah theo Chăm hóa) vừa phải tôn thờ tất cả thần của Bà la môn. Trong thực tế, người Chăm Bà la môn vẫn mời các tu sĩ Bà ni đến chủ lễ trong một số việc cúng kiếng. Trong tháng chay Ramưwan tín đồ Bà la môn cũng đến thánh đường Bà ni để cầu nguyện và cúng dường.
Hồi giáo mới (Ixlam)
Hồi giáo mới (Ixlam) mới du nhập vào đồng bào Chăm từ Trung Đông. Người Chăm theo Ixlam phổ biến ở An Giang. Những người theo Hồi giáo này có sự liên lạc với Hồi giáo quốc tế, hàng năm có người hành hương đến thánh địa Mecca. Tại mỗi thôn, người theo Ixlam đều có thánh đường riêng. Người Chăm gọi những người theo Ixlam này là Hồi giáo mới. Hoạt động của cộng đồng Chăm Ixlam theo Hồi giáo chính thống, chỉ tôn thờ thánh Ala, cầu nguyện mỗi ngày 5 lần. Tín đồ là nam đều tắm rửa sạch sẽ, y phục chỉnh tề đến thánh đường làm lễ trưa thứ sáu hàng tuần. Tín đồ nữ được làm lễ tại nhà. Các tín đồ thực hiện nghiêm túc giáo lý giáo luật của Hồi giáo, thực hiện các bổn phận của tín đồ như nhịn ăn tháng Ramadan. Các tín đồ đã hành hương đến thánh địa Mecca được mang tước hiệu Hadji và được tín đồ khác kính trọng.
Phật giáo

Phế tích Phật viện Đồng Dương
Phật giáo Đại thừa do những thương gia Ấn Độ du nhập vào Chăm pa từ những năm trước công nguyên, phát triển và hưng thịnh nhất vào thế kỷ thứ IX. Các nhà khảo cổ đã tìm thấy rất nhiều tượng Phật trong các di chỉ vùng Indrapura (Đồng Dương, Thăng Bình, Quảng Nam ngày nay), Vijaya (Nhơn Hậu, huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định ngày nay), Kauthara (khu vực đồng bằng duyên hải nhỏ hẹp từ Phú Yên Cam Ranh ngày nay), và Panturanka (vùng Phan Rang, Phan Thiết ngày nay). Đặc biệt là các nữ thần phái Mật Tông mà phổ biến nhất là Bồ Tát Prana Paramita, Bồ Tát Avalokitesvara (Bồ Tát Quán Thế Âm) và Lokesvara (Nam Phật) những vị Bồ Tát này là Phật Amitahba hay A Di Đà hiện thân để cứu độ chúng sinh. Một số tượng Phật bằng đồng cũng được tìm thấy tại động Phong Nha. Vào năm 875 nhà vua Indravarman II cho xây dựng tại Indrapura (Quảng Nam) một tu viện Phật giáo lấy tên là Laskmida Lokeskvara. Đây chính là di tích Phật viện Đồng Dương ngày nay.
Chú thích
1.     ^ Ngày xưa các thầy đi loại dép làm bằng da trâu hoặc đi chân đất.
2.     ^ Poklongarai là tên gọi của dân tộc Chăm đối với Vua SINHAVARMAN III (tên hiệu tiếng Phạn) trị vì từ 1152 đến 1205) vị vua có công lớn trong việc xây dựng hệ thống dẫn thủy ở địa phương.
3.     ^ Năm năm Tân Mùi (1631), vua Pôrômê cưới Công chúa Ngọc Khoa (公女玉姱), họ tên đầy đủ là Nguyễn Phúc Ngọc Khoa (阮福玉姱), là con gái thứ ba của chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên. Nhờ có cuộc hôn phối nầy mà tình giao hảo giữa hai nước được tốt đẹp, để chúa Nguyễn có thể dồn lực lại hòng đối phó với chúa Trịnh ở Đàng Ngoài, đồng thời cũng tạo thêm cơ hội cho người Việt mở rộng lãnh thổ về phía Nam.