Dieses Blog durchsuchen

Dienstag, 1. Oktober 2013

Kinh Bát Nhã Ba La Mật




Kinh Bát Nhã Ba La Mật  chú Thích của Đai Sư (Nhật Bãn Daiset Tetaro Suzuki)
(1) Có hai bản kinh cùng nhan đề là Hṛdaya (Tâm kinh): một bản được gọi là Lược bản, và bản khác được gọi là Quảng bản. Bản dịch ở trên, của bản lược, thông dụng ở Trung hoa và Nhật bản.
Đoạn mở đầu của Quảng bản trong nguyên bản Phạn ngữ và Tạng ngữ được tiết lược trong bản Lược như sau:
[Bản Tạng ngữ có thêm một đoạn: “Kính lễ Bát-nhã ba-la-mật vượt ngoài ngôn thuyết, tư tưởng và tán ngữ, vì tự tính như hư không, không sinh, không diệt, là cảnh giới của huệ và giới, hiển nhiên trong nội tâm chúng ta, và là mẹ của hết thảy các đấng Thế Tôn trong quá khứ, hiện tại và vị lai.”] “Tôi nghe như vậy. Một thời, đức Thế Tôn ngự tại thành Vương xá (Rājagṛha), trên đỉnh Linh thứu (Gṛdhrakūta), cùng với đại chúng Tì khưu và Bồ-tát. Bấy giờ đức Thế Tôn nhập vào tam-muội Chánh giác thậm thâm.[57] Và cùng lúc đó Đại Bồ-tát Thánh Quán Tự tại (Āryāvalokiteśvara) đang thực hành tu tập trong Bát-nhã ba-la-mật sâu xa.”[58]
Đoạn kế tiếp, cũng tiết lược trong bản lược, như sau:
Này Xá-lợi-phất, như thế Bồ-tát phải tự mình thực hành trong Bát-nhã ba-la-mật sâu xa.” Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn rời khỏi Tam muội và tán dương Đại Bồ-tát Thánh Quán Tự tại rằng: “Lành thay, lành thay, thiện nam tử! đúng như vậy! Sự tu tập Bát-nhã ba-la-mật sâu thẳm cần phải được thực hành như vậy. Đúng như lời ông đã giảng thuyết, các đức Như Lai và [59] A-la-hán cũng tán dương như thế.” Đức Thế Tôn hoan hỉ nói như thế. Trưởng lão Xá-lợi-phất và Đại Bồ-tát Thánh Quán Tự tại cùng với toàn thể chúng hội, và thế giới của chư Thiên, loài người, A-tu-la (Asura) và Càn-thát-bà (Gandharva), tất cả đều ca ngợi lời của đức Thế Tôn.”
(2) Nhìn từ quan điểm khoa học hiện đại, khái niệm về Skandha (uẩn) có vẻ quá mơ hồ và bất định. Nhưng chúng ta phải nhớ rằng nguyên tắc phân tích của đạo Phật không phát xuất từ hứng thú khoa học suông; nó có mục đích giải cứu chúng ta ra khỏi ý tưởng về một thực tại cá biệt với ảo tưởng là nó hiện hữu như thế suốt mọi thời. Vì khi ý tưởng này được nhận làm cứu cánh, thì vướng mắc phải cái sai lầm của sự chấp trước,và chính do chấp trước đó đã từng bắt chúng ta làm tôi mọi cho bạo lực ngoại giới. Năm uẩn (skandha) (các tập hợp thể, hay các yếu tố) là: sắc chất (rūpa), cảm thọ hay tri giác giác quan (vedanā), suy tưởng (saṁjñā), tập thành hay sự tác thành (saṁskāra), và thức (vijñāna). Uẩn thứ nhất là thế giới vật chất hay chất thể của mọi vật; bốn uẩn còn là thuộc về tâm giới. Vedanā xuất hiện qua các quan năng của chúng ta; saṁjñā, suy tưởng hay tư duy (thought) theo nghĩa rộng nhất, không có từ ngữ tương xứng ở Anh ngữ; hay nó là cái mà tâm phức biến; saṁskāra là một từ rất khó, không có tương đương trong Anh ngữ; nó chỉ cho cái tạo nên hình chất, là nguyên lý tạo hình; vijñāna là thức hay tâm thái. Có những hình thái của tâm thái khá rõ như thấy, nghe, ngửi, nếm, xúc chạm, và nghĩ tưởng.
(3) Bản dịch của Huyền Trang có thêm: “(Vị ấy) thoát khỏi tất cả khổ ách 度一切苦厄.”
(4) Không (śūnya) hay “tính Không” (śūnyatā) là một trong những khái niệm quan trọng nhất trong triết lý Đại thừa và đồng thời cũng gây nhiều rắc rối khó hiểu nhất cho những độc giả ngoài đạo Phật. Tính Không không có nghĩa là “tương đối tính“ (relativity) hay “hiện tượng tính“ (phenomenality), hay “cái không chi.” (nothingness). Nó chỉ cho Tuyệt đối thể, hay cái gì có bản tính siêu việt, dù nói thế cũng dẫn đến sai lầm như chúng ta sẽ thấy ở sau. Khi các nhà Phật học tuyên bố hết thảy mọi vật đều Không, họ không xướng xuất một quan điểm hư vô luận; ngược lại nó hàm ngụ một thực tại tối hậu, vốn không thể đặt dưới các phạm trù luận lý. Với các phạm trù đó, nếu nói đến tính cách hữu vi của vạn hữu thì cũng nói luôn hiện hữu của cái hoàn toàn vô vi siêu việt tất cả mọi xác định. Śūnyatā như thế thông thường cũng được diễn dịch rất chính xác là Tuyệt đối thể. Khi kinh nói rằng năm uẩn có đặc tướng (yếu tính) là Không (Không tướng), hay trong tính Không, không có sinh và diệt, không có nhiễm, tịnh, v.v…, thì có nghĩa rằng: đừng có gán cho Tuyệt đối thể những phẩm tính quyết định; trong khi nó tiềm tại trong tất cả mọi vật thể cụ thể và cá biệt, nó hoàn toàn không thể định tính. Do đó, phủ định toàn diện trong triết lý Bát-nhã là một hệ quả tất yếu.
(5) “Không có mắt, tai, v.v…” chỉ cho sáu quan năng. Trong triết học Phật giáo, ý thức (manovijñāna) là quan năng đặc biệt để tri nhận các pháp (dharma) hay các đối tượng của tư tưởng.
(6) “Không có sắc, thanh. v.v…” là sáu phẩm chất của ngoại giới, chúng làm đối tượng cho sáu quan năng.
(7) “Nhãn giới v.v…,” chỉ cho mười tám giới (dhātu) hay các yếu tố của hiện hữu, chúng gồm sáu giác năng (indriya: căn), sáu phẩm tính (viṣaya: cảnh) và sáu thức (vijñāna).
(8) “Cho đến” (Skt: yāvat; Hán: nãi chí 乃至), rất thông dụng trong văn học Phật giáo dùng để tránh lặp lại những đề tài đã biết. Những lối phân loại này hơi có vẻ phức tạp và chồng chéo.
(9) “Không có minh, không có vô minh…” là phủ định toàn bộ 12 chi duyên khởi (pratītyasamutpāda), gồm vô minh (avidyā), hành (saṁskāra), thức (vijñāna), danh sắc (nāma-rūpa), sáu xứ (ṣaḍāyatana), ái (tṛṣṇā), thủ (upādāna), hữu (bhava), sinh (jāti), già và chết (jarāmaraṇa). 12 chi duyên khởi này đã được các học giả đạo Phật thảo luận rất nhiều.
(10) Đương nhiên ám chỉ bốn Thánh đế (satya): 1. Đời sống là đau khổ (duḥkha); 2. Do sự tích tập (samudaya) của các nghiệp xấu; 3. Có thể diệt tận nguyên nhân của khổ (nirodha); 4. Có con đường (mārga) dẫn tới diệt nguyên nhân của khổ.
2. Việt dịch theo bản Hán của Huyền Trang
A. Phiên âm Hán-Việt
Quán Tự tại Bồ-tát, hành thâm Bát-nhã ba-la-mật-đa thời, chiếu kiến ngũ uẩn giai Không, độ nhất thiết khổ ách.
Xá-lợi Tử, Sắc bất dị Không, Không bất dị sắc, sắc tức thị Không, Không tức thị sắc; thọ, tưởng, hành, thức diệc phục như thị.
Xá-lợi Tử, thị chư pháp Không tướng bất sinh, bất diệt, bất cấu, bất tịnh, bất tăng, bất giảm; thị cố Không trung vô sắc, vô thọ, tưởng, hành, thức; vô nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý; vô sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp; vô nhãn giới nãi chí vô ý thức giới; vô vô minh, diệc vô vô minh tận, nãi chí vô lão tử diệc vô lão tử tận; vô khổ, tập, diệt, đạo; vô trí, diệc vô đắc. Dĩ vô sở đắc cố. Bồ-đề-tát-đỏa y Bát-nhã ba-la-mật-đa cố, tâm vô quái ngại; vô quái ngại cố, vô hữu khủng bố, viễn ly điên đảo mộng tưởng, cứu cánh Niết-bàn. Tam thế chư Phật y Bát-nhã ba-la-mật-đa cố đắc A-nậu-đa-la tam-miệu-tam-bồ-đề
Cố tri Bát-nhã ba-la-mật-đa thị đại thần chú, thị đại minh chú, thị vô thượng chú, thị vô đẳng đẳng chú, năng trừ nhất thiết khổ, chân thật, bất hư cố; thuyết Bát-nhã ba-la-mật-đa. Tức thuyết chú viết: Yết-đế, yết-đế, ba-la-yết-đế, ba-la-tăng-yết-đế, Bồ đề, tăng sa-ha.
B. Việt dịch[60]
Bồ-tát Quán Tự tại trong khi thực hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm, soi thấy năm uẩn đều Không, vượt qua tất cả mọi khổ ách.
-lợi Tử, sắc không khác Không; Không không khác sắc. Thọ, tưởng, hành, thức cũng vậy. Xá-lợi Tử, đặc tướng Không của các pháp ấy không sinh,[61] không diệt, không cấu, không tịnh, không tăng, không giảm; do đó, trong Không không có sắc, thọ, tưởng, hành, thức; không có mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý; không có sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp; không có giới của con mắt, cho đến không có giới của ý thức; không có vô minh, cũng không có sự diệt tận của vô minh, cho đến, không có già và chết, cũng không có sự diệt tận của già và chết; không có khổ, tập, diệt, đạo; không có trí, cũng không có đắc. Vì vô sở đắc.
Bồ-đề-tát-đỏa, do y chỉ Bát-nhã ba-la-mật-đa, tâm không bị bưng kín. Do không bị bưng kín, nên không có sự sợ hãi, xa lìa tất cả điên đảo và mộng tưởng, đạt đến Niết-bàn cứu cánh. Chư Phật trong ba đời do y chỉ Bát-nhã ba-la-mật-đa mà chứng đắc A-nậu-đa-la tam-miệu-tam-bồ-đề
Do đó nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa là thần chú vĩ đại, là minh chú vĩ đại, là chú vô thượng, là chú không gì có thể so sánh, diệt trừ tất cả khổ, chân thật, vì không hư dối, được gọi là chú Bát-nhã-ba-la-mật-đa. Tức thuyết chú rằng: yết-đế, yết-đế, ba-la-yết-đế, ba-la-tăng-yết-đế, bồ-đề, tăng sa-bà-ha.
Trich từ Thư Viên Hoa Sen 
Chú thích của Mây Ngàn:Nếu muốn nghiên cứú sâu rông hơn xin các bạn vô trang links dưới đây: 
http://thuvienhoasen.org/D_1-2_2-58_4-17418_5-50_6-1_17-199_14-1_15-1/bat-nha-tam-kinh-trong-phat-giao-thien-tong-daisetz-teitaro-suzuki-ban-dich-viet-tue-sy.html


Keine Kommentare:

Kommentar veröffentlichen