Từ sự kiện Formosa Hà Tĩnh: “TRUNG QUỐC HÓA” VIỆT NAM
Mạnh Kim
Điều đáng nói là không quốc gia nào giống Việt Nam khi
nói đến những ảnh hưởng tiêu cực mà Trung Quốc mang lại. Không quốc gia
nào chịu ảnh hưởng khủng khiếp của hiện tượng “Chinafication”
[sinisation = Trung Quốc hóa – BVN] bằng Việt Nam. Tại sao?
Không quốc gia nào tự trói dân tộc mình với một nước khác bằng
“phương châm 16 chữ vàng và tinh thần bốn tốt”. Không Chính phủ tỉnh táo
và khôn ngoan nào lại cúi mình để mang chủ thuyết ngoại lai về làm chủ
thuyết chính trị cai trị đất nước. Chẳng dân tộc liêm sỉ nào lại tôn
sùng một “kim chỉ nam” khai sinh từ một kẻ ngoại quốc như Mao Trạch
Đông.
Hậu quả của chính sách vĩ mô về quan hệ Trung Quốc-Việt Nam nói
chung, không phải bây giờ, mà từ thập niên 1940, cuối cùng đã biến Việt
Nam thành một phiên bản của Trung Quốc. Bất kỳ cái xấu nào xuất hiện ở
Trung Quốc, từ gian lận bằng cấp, buôn gian bán dối, đầu độc con người,
bất tín và tàn ác, đạo đức suy bại, tham nhũng hệ thống, buôn thần bán
thánh…, đều có y hệt tại Việt Nam. Trung Quốc “xuất khẩu” rất nhanh
những điều tồi tệ vào Việt Nam và Việt Nam tiếp nhận rất nhanh những
điều tồi tệ từ Trung Quốc.
Mạnh Kim
Trong một bài viết, Giáo sư-Tiến sĩ Canada gốc Hoa, Khương Văn Nhiên
(Wenran Jiang; Đại học Alberta), nhận xét: “Các công ty Trung Quốc trả
lương thấp lại buộc công nhân làm việc thêm giờ; làm thế nào người ta kỳ
vọng họ đối xử khác như thế ở nước ngoài? Với 6.700 công nhân mỏ than
chết bởi tai nạn hầm mỏ mỗi năm (17 người/ngày)…, làm thế nào người ta
có thể hy vọng các doanh nghiệp Trung Quốc hành xử tử tế hơn đối với
những nơi khác trên thế giới?… Trung Quốc đang tàn phá nghiêm trọng hệ
sinh thái nước họ trong quá trình hiện đại hóa cực nhanh; làm thế nào
người ta có thể hy vọng họ ý thức áp dụng các biện pháp thân thiện môi
trường theo chuẩn phương Tây ở những nơi khác?”
Cùng với việc xuất khẩu lực lượng lao động, xuất khẩu hàng hóa, “xuất
khẩu” lực lượng lao động thất nghiệp trong nước…, Trung Quốc còn “xuất
khẩu” cả văn hóa bê bối và bất lương trong đầu tư-kinh doanh. Bất cứ nơi
nào đến, họ cũng tàn phá và hủy diệt môi trường theo cách hệt như họ
đối xử với con người và môi trường ở đất nước họ. Những chuyện “truyền
kỳ” như thế đã chẳng còn lạ. Ở những nước như Việt Nam, nơi có hệ thống
luật môi trường lỏng lẻo (tương tự Trung Quốc) và không đủ sức kiểm soát
luật đầu tư ngay tại chính đất nước mình, tai họa mà Trung Quốc mang
đến tất nhiên luôn thảm khốc.
Các nước châu Phi đã khóc ròng với những cuộc tàn phá môi trường của
giới đầu tư Trung Quốc. Chinafication (Trung Quốc hóa) là thuật từ phổ
biến để chỉ làn sóng đầu tư toàn cầu của Trung Quốc. Điều đáng nói là
không quốc gia nào giống Việt Nam khi nói đến những ảnh hưởng tiêu cực
mà Trung Quốc mang lại. Không quốc gia nào chịu ảnh hưởng khủng khiếp
của hiện tượng “Chinafication” bằng Việt Nam. Tại sao?
Không quốc gia nào tự trói dân tộc mình với một nước khác bằng
“phương châm 16 chữ vàng và tinh thần bốn tốt”. Không Chính phủ tỉnh táo
và khôn ngoan nào lại cúi mình để mang chủ thuyết ngoại lai về làm chủ
thuyết chính trị cai trị đất nước. Chẳng dân tộc liêm sỉ nào lại tôn
sùng một “kim chỉ nam” khai sinh từ một kẻ ngoại quốc như Mao Trạch
Đông.
Hậu quả của chính sách vĩ mô về quan hệ Trung Quốc-Việt Nam nói
chung, không phải bây giờ, mà từ thập niên 1940, cuối cùng đã biến Việt
Nam thành một phiên bản của Trung Quốc. Bất kỳ cái xấu nào xuất hiện ở
Trung Quốc, từ gian lận bằng cấp, buôn gian bán dối, đầu độc con người,
bất tín và tàn ác, đạo đức suy bại, tham nhũng hệ thống, buôn thần bán
thánh…, đều có y hệt tại Việt Nam. Trung Quốc “xuất khẩu” rất nhanh
những điều tồi tệ vào Việt Nam và Việt Nam tiếp nhận rất nhanh những
điều tồi tệ từ Trung Quốc. Việt Nam đang bị khủng hoảng nhập siêu từ
Trung Quốc. “Khủng hoảng nhập siêu” cả những thuật từ mà Bắc Kinh thường
dùng, từ “thế lực thù địch” đến “diễn biến hòa bình”. Căn cước định
tính của dân tộc Việt, nếu không được “cấp” hoặc được sao chép từ Trung
Quốc, thì cũng đang bị chính đất nước này can tâm đốt đi, thiêu rụi cùng
với lịch sử ngàn năm từng tự hào không bị đồng hóa bởi giặc phương Bắc.
Vấn đề không chỉ là những con cá chết do Formosa Hà Tĩnh gây ra. Cái
chết của một dân tộc đang mất gốc mới là điều đáng suy nghĩ và lo âu.
Rồi sẽ có những “Formosa Hà Tĩnh” khác. Rồi sẽ có những kỳ “Đền Hùng
thất thủ” tiếp theo. Một quốc gia không có căn cước luôn đi rất nhanh
đến vực sụp đổ mà người ta thấy rõ nhất ở cách mà con người sống và hành
xử. Một đất nước đã tự đánh mất định tính dân tộc khi chấp nhận dùng hệ
thống định tính khác để quy chiếu và áp dụng thì sự lệ thuộc và ảnh
hưởng là điều không thể tránh khỏi. Nếu không đủ dũng khí và can đảm tự
cởi nút thòng lọng khỏi cái giá treo cổ lủng lẳng “16 chữ vàng”, dân tộc
này sẽ còn lại gì, ngoài mớ tro tàn của mảnh căn cước bị thiêu?
M.K.
Keine Kommentare:
Kommentar veröffentlichen