MN: một câu chuyện thuơng tâm cuả một nguời anh hùng,liệt sỹ kính mến cuả VNCH,cuả dân tộc Việt oai hùng can đảm ,một chiến sỹ không bao giờ đầu hàng giặc,bọn phiến loạn,tai sai Tàu cộng ,anh bị giam cầm ,lọt vô tay giặc và bị chúng giết hại tại nhà tù Phú quốc...
MN đọc trong E-mail cuả bạn
NGƯỜI
KHÔNG NHẬN TỘI
MỘT CON
NGƯỜI BẤT
KHUẤT RẤT ĐÁNG KÍNH PHỤC . VẠN NGƯỜI DỄ CÓ
MẤY AI
DÙ ĐÃ ĐỌC
RỒI ĐỌC
LẠI VẪN NHIỀU TIẾC THƯƠNG
NGƯỜI
KHÔNG NHẬN TỘI: KHA TƯ GIÁO
Tôi biết anh khi
cùng đến trình diện “ học tập ”
tại trường Pétrus Ký ngày 24 tháng 6 năm
1975. Anh sinh năm 1942, tốt nghiệp
khóa 1 Chánh Trị Kinh Doanh Viện Đại Học Đà
Lạt. Sau khi ra trường anh bị động
viên khóa 9/68 Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức, rồi
được biệt phái làm việc ở Kỹ Thương
Ngân Hàng, tức Ngân hàng Quân Đội ở đường
Nguyễn Huệ, Sài Gòn. Anh là một thanh
niên khỏe mạnh, to cao, chưa lập gia đình.
Vì cận thị nên lúc nào cũng mang
kính trắng. Trông anh ai cũng dễ nhận ra anh
là một trí thức giàu tiềm năng,
nhiều nghị lực. Anh có người chú ruột là kỹ
sư làm Bộ trưởng Bộ Công Nghiệp nhẹ
của chế độ Cộng Sản Bắc Việt. Sở dĩ tôi biết
nhiều về anh là do khi bị đưa vào
trại tập trung ở Thành Ông Năm , Hốc Môn,
cũng như khi ra Phú Quốc tôi lúc nào
cũng được “ biên chế ” cùng tổ , đội với
anh, chỗ nằm cũng sát bên anh, vì
người ta căn cứ theo thứ tự A, B, C của tên
mỗi người khi lập danh sách. Tên
anh rất lạ và dễ nhớ :” KHA TƯ GIÁO".
Khi mới vào trại
tập trung, ngoài giờ lao động khổ
nhọc, các “ cải tạo viên “ còn phải học mười
(10) bài chánh trị. Sau mỗi bài
học là những buổi thảo luận trong tổ, đội.
Mỗi ngưởi phải viết “ bài thu họach
” những gì mình “ tiếp thu ” được sau những
bài giảng của cán bộ tuyên truyền,
được gọi là giáo viên. Sau bài học đầu tiên
đề tài thảo luận đưa ra là mọi người
phải “ liên hệ bản thân ”, xác định mình là
người có tội với nhân dân, với “
cách mạng ”. Người cầm súng thì giết bao
nhiêu cách mạng trong từng trận đánh.
Bác sĩ thì chữa trị cho binh sĩ lành bệnh để
đánh phá cách mạng như thế nào.
Người làm ngân hàng ( như tôi và anh Kha Tư
Giáo ) thì có tội phục vụ cho nền
tài chánh, dùng tiền nuôi dưỡng chiến tranh.
Cảnh sát thì đàn áp nhân dân ra
làm sao, vân vân…Trại của chúng tôi đa số là
sĩ quan biệt phái. Họ nói biệt
phái là phái làm công tác đặc biệt. Thí dụ
giáo viên biệt phái là những người
lãnh lương hai đầu, một bên là quân đội, một
bên là giáo dục, được phái về dạy
học để đánh rớt học sinh, buộc học sinh phải
đi lính, biệt phái ngân hàng là sĩ
quan được đưa về làm công tác ngân hàng,
kiếm thêm thu nhập cho người lính để
có thêm sức cầm súng. Do đó, sĩ quan biệt
phái là những người có tội rất nặng
với cách mạng và nhân dân hơn những người
khác. Anh KTG thì cho rằng anh và các
bạn anh không ai là người có tội. Các chiến
sĩ Việt Nam Cộng Hòa cầm súng chống
lại bộ đội Bắc Việt và quân nằm vùng là để
tự vệ mà không hề chống lại nhân
dân, đồng bào ruột thịt trong Nam cũng như
ngoài Bắc. Riêng bản thân anh, sanh
ra và lớn lên ở miền Nam, học hành và làm
công tác chuyên môn ngân hàng để sống
và phục vụ cho đất nước thì sao gọi là có
tội. Lập trường anh Giáo không đáp
ứng yêu cầu của Việt Cộng. Đó là tấn thảm
kịch của anh. Anh bị bắt làm kiểm
điểm liên tục còn những người khác thì cũng
bị bắt phải “ giúp đỡ ” anh nhìn
thấy được tội lỗi của mình để được cách mạng
và nhân dân khoan hồng. Càng kiểm
điểm anh càng thấy mình là người vô tội. Bài
viết lúc đầu thì dài, về sau chỉ
còn bốn chữ thật to chiếm hết trang giấy :
” TÔI KHÔNG CÓ
TỘI”
Việt Cộng hỏi, anh
trả lời những gì cần phải nói
anh nói hết rồi. Bạn bè trong đội thấy anh
giữ lập trường như thế thì rất nguy
hiểm cho anh mà bạn bè cũng khổ. Vì sau giờ
lao động cực nhọc đáng lẽ được nghỉ
ngơi, lại phải ngồi kiểm điểm với anh đến
mỏi mệt, chán chường. Nhiều người
trách anh sao không biết “ nín thở qua sông
”, họ khuyên anh cứ viết đại vào
giấy là mình có tội một cách chung chung,
miễn là thực tế không làm gì hại
nước, hại dân là được. Anh bảo như vậy là
mắc lừa Cộng Sản và lương tâm không
cho phép.
Khi tất cả cán bộ
ở trại đều bất lực thì cán bộ cao
cấp từ Sài Gòn được cử xuống. Những người
này tỏ ta có tay nghề hơn. Nghe đâu
là sư trưởng VĐG từng là thành viên của phái
đoàn đàm phán Bắc Việt tham dự hội
nghị Paris năm 1973, cùng với một đại tá
chánh ủy sư đoàn ( ?). Họ không trấn
áp anh mà tỏ ra lắng nghe và chịu đối thọai.
Anh Giáo đã chứng tỏ bản lĩnh của
mình bằng những câu hỏi đặt ra mà họ không
trả lời được. Ngược lại, anh còn
phản công, vạch trần tội ác của họ. Từ vai
một người tù, một tội nhân anh trờ
thành một công tố viên trước tòa, luận tội
Việt Cộng. Bằng một giọng đầm ấm và
trầm tĩnh, anh Giáo nói :
- Chúng tôi là
những người sanh ra và lớn lên ở
miền Nam. Nhờ hạt gạo của đồng bào miền Nam
nuôi lớn và trưởng thành từ nền văn
hóa và giáo dục khoa học, nhân bản và khai
phóng. Chúng tôi có lý tưởng của
chúng tôi cũng như các anh có lý tưởng của
các anh. Lý tưởng của các anh là
dùng bạo lực để lật đổ chánh phủ hợp hiến,
hợp pháp Việt Nam Cộng Hòa để bành
trướng chủ nghĩa Cộng sản. Lý tưởng của
chúng tôi là bảo vệ Tự Do, Dân Chủ. Các
anh từ miền Bắc vào xâm lăng miền Nam, buộc
lòng dân quân miền Nam phải cầm
súng tự vệ. Chúng tôi có câu “ giặc đến nhà
đàn bà phải đánh”. Chẳng lẽ một
công dân cầm súng chống lại kẻ thù để bảo vệ
bà con mình, gia đình mình, tổ
quốc mình thì có tội ?
Hai cán bộ Việt
Cộng im lặng, chỉ gật gật cái đầu.
Một lúc sau, viên đại tá chính ủy lên tiếng
:
- Các anh chỉ là
tay sai đế quốc Mỹ. Ở đâu có Mỹ,
có bom đạn Mỹ thì chúng tôi đánh. Đất nước
Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là
một…
Anh Giáo ngắt lời
:
- Sông có thể cạn,
núi có thể mòn, song chân lý đó
không bao giờ thay đổi, chớ gì ? Các anh chỉ
biết lặp lại mà không biết gì về
quốc tế công pháp. Tôi nhắc lại, hiệp định
Genève năm 1954 mà các anh đã ký
ngày 20/7/1954 quy định từ vĩ tuyến 17 trở
ra là nước Việt Nam Dân Chủ Cộng
Hòa, từ vĩ tuyến 17 trở vào là nước Việt Nam
Cộng Hòa của chúng tôi, được Liên
Hiệp Quốc và quốc tế công nhận.
Tên sư trưởng phản
ứng :
- Các anh là công
cụ Đế quốc Mỹ âm mưu chia cắt
vĩnh viễn đất nước. Còn chúng tôi đánh Mỹ là
để thống nhất đất nước, mang lại
Độc Lập cho Tổ Quốc, Tự Do, Hạnh Phúc cho
đồng bào.
Anh KTG : - Nên
nhớ, các anh mới là người âm mưu
cùng thực dân Pháp chia cắt đất nước bằng
hiệp định Genève năm 1954. Chúng tôi
không hề ký vào hiệp định đó. Đồng minh
chúng tôi không phải chỉ có Mỹ mà có
Đại Hàn, Phi Luật Tân, Tân Tây Lan, Úc Đại
Lợi và tất cả quốc gia yêu chuộng
hòa bình trên thế giới. Các anh mới là tay
sai Liên Xô và Trung Cộng. Chủ nghĩa
Cộng Sản chủ trương bành trướng, xâm lược,
nhuộm đỏ toàn thế giới chớ không
riêng gì Việt Nam.
Tên sư trưởng :
- Người Cộng Sản
làm cách mạng là để giải phóng các
dân tộc khỏi áp bức, bóc lột mà đầu sỏ là đế
quốc Mỹ để mang lại công bằng xã
hội, ấm no, hạnh phúc cho mọi người.
- Tôi thiết nghĩ
những người cần được giải phóng là
nhân dân miền Bắc đang thiếu Tự Do, Dân Chủ,
đang sống đời lầm than cơ cực.
Chúng tôi không cần các anh giải phóng.
Bất ngờ, tên đại
tá chánh ủy đập tay xuống bàn cái
rầm. Ly nước trước mặt hắn ngã đổ tung tóe :
- Quân phản động !
Anh KTG vẫn giữ
điềm tĩnh và im lặng. Thời
gian trôi qua nặng nề.
Tên sư trưởng dịu giọng :
- Các
anh ôm chân đế quốc, bị đầu độc bởi vật chất
xa hoa và văn hóa đồi
trụy của chủ nghĩa tư bản thối tha nên không
nhìn thấy tội lỗi của mình.
Bằng
một giọng ôn tồn mà cương quyết, anh Giáo
trả lời :
-
Chúng tôi là người Việt quốc gia, không theo
chủ nghĩa nào cả. Chủ
nghĩa chỉ là lý thuyết, là giáo điều do con
người đặt ra để phục vụ cho những
mục tiêu chánh trị nhất định trong một giai
đọan lịch sử nhất định. Đến lúc nào
đó nó sẽ bị đào thải do không theo kịp sự
tiến hóa không ngừng của xã hội. Còn
chủ nghĩa Cộng Sản chỉ là chủ nghĩa ngoại
lai, duy vật và sai lầm khi chủ
trương vô gia đình, vô tôn giáo, vô tổ quốc,
đi ngược lại bản chất con người,
ngược lại truyền thống duy tâm , trọng đạo
và nền văn hóa cổ truyền của người
Việt. Nó quá tàn nhẫn và sai lầm khi chủ
trương đấu tranh giai cấp bằng chuyên
chính vô sản. Tôi cho rằng nó sẽ không tồn
tại lâu dài.
Thấy
hai tên Việt Cộng vẫn im lặng, anh Giáo nói
tiếp :
-
Trong thời gian Tết Mậu Thân năm 1968 các
anh đã đồng ý hưu chiến để
đồng bào an tâm vui đón ba ngày lễ cổ truyền
của dân tộc. Vậy mà các anh lại
tấn công vào các đô thị miền Nam, gieo rắc
kinh hoàng, chết chóc cho người dân
vô tội. Khi các anh rút lui khỏi Huế lại
nhẫn tâm sát hại, chôn sống hàng ngàn
dân lành. Các anh ký hiệp định Paris năm
1973 để chấm dứt chiến tranh và lập
lại hòa bình ở Việt Nam. Lúc nào các anh
cũng giương cao ngọn cờ chống Mỹ cứu
nước như chánh nghĩa đấu tranh của mình,
nhưng khi Mỹ rút đi rồi thì các anh
dốc toàn lực đánh chiếm miền Nam. Vậy mà các
anh nói được là hòa bình, hòa giải
dân tộc !
Nói
tới đây anh Giáo ngừng lại trong giây phút,
rồi bất ngờ anh chỉ tay
về phía hai cán bộ Việt Cộng :
- Vậy
thì giữa chúng tôi và các anh, ai mới là
người có tội ?
Bấy
giờ thì hai tên Việt Cộng giận run, nét mặt
đanh lại, xám ngắt.
Chúng không trả lời câu hỏi của anh Giáo mà
đuổi anh ra khỏi phòng.
Bằng
đủ mọi cách đấu tranh buộc anh Giáo nhận tội
không kết quả, bọn
Việt Cộng để cho phong trào lắng xuống. Ai
cũng hồi hộp, lo lắng, không biết
điều gì sẽ xảy đến cho anh KTG. Việt Cộng có
thể mang anh ra bắn công khai về
tội phản động như họ đã từng làm ở trại này
mà anh Giáo cũng như mọi người
trong trại đều biết. Thời gian này anh Giáo
cho biết các em của anh đi học tập
cùng đợt đã được ông chú bảo lãnh về hết,
trong đó có người em ở trại kế bên,
chỉ cách nhau một hàng rào dây thép gai.
Ngày hai anh em chia tay nhau bên hàng
rào, anh Giáo dặn em hãy về lo cho mẹ và gia
đình và đừng lo gì cho anh, chắc
là lâu lắm anh mới được về. Phần anh vẫn vui
vẻ sống cùng anh em với tinh thần
bình thản, một đôi khi còn tiếu lâm, khôi
hài nữa. Anh thường hay hát những bài
như Hà Nội, Niềm tin và Hy vọng, Anh lính
quân bưu vui tính…Tôi hỏi sao không
hát những bản nhạc của mình, anh nói hãy cố
giữ nội quy của họ để họ không nói
được mình. Anh Giáo là thế, lúc nào cũng tự
trọng. Mười bài học chánh trị rồi
cũng qua. Chúng tôi có nhiều giờ rảnh hơn vì
lúc này không còn phải ngồi hàng
giờ để thảo luận và “ giúp đỡ ” anh Giáo
nữa. Nghĩ lại,Việt Cộng dùng từ cũng
ngộ, như từ “giúp đỡ ” được dùng trong
trường hợp này. Chúng tôi xét thấy chẳng
có ai đủ tư cách để giúp đỡ anh Giáo, ngược
lại rất nể trọng anh và được anh
giúp đỡ rất nhiều .
Vào
những buổi chiều sau khi cơm nước xong, anh
và tôi thường hay đi
bách bộ dưới tàng những cây sứ có hoa màu
trắng, tỏa hương thơm ngát. Chúng tôi
thường trao đổi với nhau về chuyện ngân hàng
và những vấn đề mà cả hai cùng
quan tâm.Thấy anh nhặt rất nhiều bông sứ,
tôi hỏi :
- Chi
vậy ? - Mai mốt về tặng người yêu- Anh trả
lời. - Chắc là cô bạn
rất thích hoa này ? - Vì nó trắng tinh khiết
và thơm dịu dàng. - Sợ tới chừng
đó nó sẽ phai màu đi – Tôi e ngại. - Không
sao. Dù hoa có phai màu nhưng chắc
sẽ giữ được tình cảm của mình trong đó ! -
Anh lãng mạn quá – Tôi nhận xét.
Anh
Giáo cười để lộ hai cái răng khểnh và một
đồng tiền dưới khóe miệng
bên phải. Trông anh dễ thương hơn bao giờ
hết !
Có
lần trong lúc trò chuyện anh nói hiện nay
anh ghét nhất là cái khẩu
hiệu “ Yêu nước là yêu chủ nghĩa xã hội ”.
Bản thân chủ nghĩa xã hội không ra
gì thì làm sao mà yêu cho được. Theo anh
Giáo, yêu nước là yêu nước. Không thể
và không nên gán ghép nước Việt Nam với bất
cứ một chủ nghĩa nào, dù là Chủ
Nghĩa Xã Hội, Cộng Sản hay Tư Bản. Nếu những
chủ nghĩa này sụp đổ thì không yêu
nước nữa hay sao ?
2.
Đêm 21 tháng 6 năm 1976 chúng tôi được chở
bằng Motolova đến Tân Cảng
xuống tàu há mồm 503 ra Phú Quốc. Chuyến đi
thật kinh hoàng như địa ngục trần
gian mà con người có thể tưởng tượng được.
Hàng ngàn người bị dồn trên con tàu
đóng kín cửa. Ăn uống, ói mửa, tiểu tiện chỉ
có một chỗ, cho vào thùng phuy.
Khi tàu cập bến Phú Quốc có nhiều tù nhân bị
xỉu, những người còn lại đều kiệt
sức. Tù nhân phải dùng chính những thùng
phuy này để nấu cháo ăn ngay trong
đêm. Cho tới hôm nay là ba muơi bốn năm,
hình ảnh hãi hùng này vẫn còn ám ảnh
tôi. Tôi ghi vào nhật ký :
Đau
đớn thay những linh hồn cháy lửa
Suốt
đêm ngày tắm rửa với mồ hôi
Với
cao tay quờ quạng chút hơi người
Miệng
gào thét những âm thanh khiếp đảm
Ở Phú
Quốc ngoài việc trồng rau để “ cải thiện ”
bửa ăn, việc lên rừng
đốn củi là công tác thường xuyên và cực nhọc
nhất. Nhiều anh em nghe lời Việt
Cộng, đi tìm vác những cây to để chứng tỏ
mình là người “ tiến bộ ”. Anh Giáo
thì không. Lúc nào anh cũng ung dung, tự
tại. Anh chỉ tìm vác những cây vừa sức
mình. Khi thấy cần phải nghỉ thì anh dừng
lại nghỉ, mặc cho bọn vệ binh ôm súng
canh giữ cho tới lúc hết mệt anh mới đứng
lên đi tiếp. Anh khuyên anh em phải
biết giữ gìn sức khỏe vì thời gian “ học
tập” hãy còn dài. Giờ đây ngồi ghi lại
những dòng này, cảnh tượng của năm nào lại
hiện ra trước mặt: Trong một buổi
chiều ảm đạm, gió thổi ào ào. Một bên là
biển, một bên là rừng. Đoàn tù cả trăm
người, dài hơn cây số, xếp hàng đôi, áo quần
lôi thôi lếch thếch, vai vác những
thân cây nặng nề, mồ hôi lã chã, chậm chạp
lê bước trên những con dốc ngoằng
ngoèo, trơn trợt. Nhiều người té lên té
xuống. Hai bên và phía sau là những tên
vệ binh ôm súng AK thúc giục.Tới đầu một con
dốc, anh Giáo đặt thân cây xuống,
ngồi trên đó nghỉ mệt. Khi một ngừời không
đi nổi thì cả đoàn phải dừng lại
chờ. Điều này bọn cai tù Việt Cộng không
muốn. Tên chỉ huy đến chỗ anh Giáo bắt
phải đứng lên đi tiếp Anh Giáo trả lời mệt
quá nên phải nghỉ. Tên cán bộ không
chịu. Thế là cuộc đấu trí bắt đầu. Đến khi
đuối lý, tên cán bộ rút khẩu K 54 ra
khỏi vỏ. Cả đoàn tù hồi hộp. Cả khu rừng như
nín thở. Tên cán bộ đến bên anh ,
nghiêm sắc mặt :
- Anh
có đứng lên không ? - Tôi còn mệt. - Anh
không chấp hành lệnh phải
không ? - Tôi đã nói là tôi còn mệt. Bao giờ
hết mệt tôi sẽ đi.
Tên
cán bộ hướng khẩu K54 về phía anh Giáo :
- Anh
không đứng lên tôi bắn.
Anh
Giáo vẫn ngồi bất động, lạnh lùng đáp :
- Anh
cứ bắn đi !
Tên
cán bộ Việt Cộng bóp cò. Hai tiếng nổ chát
chúa vang động cả khu
rừng. Một bầy chim bay lên tán lọan, kêu
quang quác…Nhiều người tù gục xuống,
ôm ngực :
- Lạy
Chúa tôi.
Sự
việc diễn ra chỉ trong vài giây ngắn ngủi
nhưng đã nói lên tất cả nét
bi hùng của cuộc chiến sau “ Hòa bình ” mà
kẻ có vũ khí trong tay đã thua, đồng
thời tính chất anh hùng của người chiến sĩ
Quân lực Việt Nam Cộng Hòa trong
hoàn cảnh sa cơ thất thế vẫn sáng ngời, chói
lọi. Người tù đã thắng!
Không
biết vì sợ hãi hay run tay mà đường đạn nhắm
vào anh Giáo đã đi
trượt một bên tai, làm bể nát phần thân cây
mà anh Giáo đang ngồi trên đó. Tôi
thì sửng sốt, bàng hoàng, tưởng như mình vừa
trải qua một giấc mơ, vừa chứng
kiến một cảnh chỉ có thể xảy ra trên màn
ảnh, truyền hình !
Anh
Giáo thường hay kể truyện Tam Quốc, truyện
Thần Điêu Đại Hiệp,
truyện Tây Du Ký cho chúng tôi nghe. Hết
truyện Tàu đến truyện tiếu lâm, làm
cho đời sống tù tội bớt căng thẳng. Sau một
thời gian ở Phú Quốc, Việt Cộng
nhiều lần cho họp liên trại, phát động lại
chiến dịch đấu tranh bắt anh Giáo
nhận tội, nhưng rồi không thể nào lay chuyển
được tư tưởng của anh.
Riêng
đám tù binh chúng tôi bấy giờ rất thoải mái
chớ không còn căng
thẳng như lúc ở Hốc Môn. Người ta chỉ tổ
chức đấu tranh với anh Giáo cho có lệ.
Những lần như thế chúng tôi khỏi phải lên
rừng vác củi, được nghỉ lao động, lại
thích hơn.
Nhưng
thời khắc định mệnh đã tới ! Một hôm trong
lúc xếp hàng điểm danh
cuối ngày, cán bộ Việt Cộng ra lệnh cho anh
Giáo phải bỏ kính ra. Anh trình bày
vì cận thị từ lâu nên không bỏ ra được. Chỉ
chờ có thế, chúng ra lệnh nhốt anh
vào cũi sắt làm bằng dây thép gai, thứ mà
chúng ta hay gọi là chuồng cọp, diện
tích rất hẹp, nằm không được mà ngồi cũng
không được. Chuồng cọp để giữa trời ,
không có mái che mưa che nắng. Ngay từ năm
1930, khi thành lập đảng Cộng Sản,
họ đã có chính sách “ Trí, Phú, Địa, Hào,
đào tận gốc bốc tận rễ ”. Anh KTG là
một trí thức mặc dầu thua trận vẫn cương
quyết giữ vững lập trường chống Cộng
và quyết tâm bảo vệ chánh nghĩa Quốc Gia thì
sẽ bị tiêu diệt là điều khó tránh
khỏi. Tiến sĩ toán ĐXH, cá nhân tôi và biết
bao anh em khác cùng đội cũng mang
kính trắng giống như anh KTG mà không hề bị
làm khó dễ. Điều này được giải
thích như thế nào đây ? Mỗi ngày Việt Cộng
chỉ cho anh Giáo nửa chén cơm lạt.
Anh lại tuyệt thực để đấu tranh và phản đối
chính sách dã man và sự trả thù hèn
hạ của chúng. Ngoài tuyệt thực, anh Giáo còn
dùng lời ca, tiếng hát để làm vũ
khí đấu tranh. Bài hát anh Giáo sử dụng là
bài Đêm Nguyện Cầu, trong đó có
những câu:
“ Con
tim chân chính không bao giờ biết đến nói
dối…
Nghẹn
ngào cho non nước tôi, trăm ngàn ưu phiền…”
Có lẽ
trong giờ phút đó, anh Giáo biết rằng mình
đã ở vào thế hoàn toàn
tuyệt vọng và chỉ có thể nguyện cầu mà thôi.
Đây là lần đầu tiên mà có lẽ cũng
là duy nhất trong đời, tôi nhìn thấy một
người hát bằng tất cả linh hồn như
vậy. Anh Giáo thường cất tiếng hát của mình
vào những đêm khuya thanh vắng.
Giọng hát của anh bay vào không gian, vào
từng lán, trại, có lúc thật cảm xúc,
có lúc nghe rợn người như âm thanh phát ra
từ cõi chết. Nhiều người nghe anh
hát thì ngủ không được, nhiều người đang ngủ
thì bừng tỉnh dậy và khóc nức nở.
Bài
Đêm Nguyện Cầu là của Lê- Minh- Bằng. Anh
Bằng năm nay vẫn còn sống
ở Mỹ, chắc anh không ngờ sáng tác của anh
lại có người sử dụng trong hoàn cảnh
đắng cay như vậy. Giờ đây mỗi lần nghe lại
bài hát này tôi không cầm được nước
mắt vì nhớ tới người bạn của mình. Lời ca
của anh Giáo rồi thì cũng yếu dần và
tôi không nhớ cho đến khi nào thì tắt lịm.
Anh bị xuống sức rất nhanh. Từ một
thanh niên khỏe mạnh cao hơn một thước bảy,
chỉ trong vòng một tháng anh chỉ
còn là một bộ xương, duy có đôi mắt là còn
tinh anh, sáng ngời, khiến cho nhiều
người không dám nhìn thẳng vào mắt anh, nhất
là cán bộ Việt Cộng.
Ngày
20 tháng 6 năm 1977 Việt Cộng cho di chuyển
một số tù nhân từ Phú
Quốc về Long Giao, Long Khánh. Anh Giáo di
chuyển đợt đầu, tôi thì đi đợt kế
tiếp. Trong lúc di chuyển, anh Giáo bị còng
tay, lúc nào cũng có vệ binh ôm
súng canh chừng. Ngay khi về tới Long Giao
tôi vội đi tìm anh Giáo. Khi gặp
được anh thì anh đang hấp hối. Tôi nắm tay
anh, bàn tay lạnh ngắt Lời nói cuối
cùng anh nhắn lại với tôi là khi nào được về
thì nói tất cả sự thật cho gia
đình anh biết. Tôi hỏi địa chỉ ở đâu thì anh
thều thào trong hơi thở rất yếu.
Hình như anh thốt ra hai chữ Huyền Trân. Sau
này khi đi lao động tình cờ tôi
gặp được nấm mộ của anh, phủ đầy cỏ dại ở
một góc sân banh hoang vắng. Trên mộ
có tấm bảng gỗ nhỏ có đề tên anh, nét chữ
nhạt nhòa.
3.
Tôi được tha về cuối năm 1977. Mặc dầu phải
đương đầu với biết bao
khó khăn trong đời sống hàng ngày đối với
một người vừa mới ra tù, tôi vẫn để
tâm đi tìm gia đình anh Kha Tư Giáo. Theo
quyết định ra trại, tôi chỉ được tạm
trú ở nhà một tháng, sau đó phải chịu sự
điều động của địa phương đi “Kinh Tế
Mới ”. Nhờ may mắn, tôi xin được giấy chứng
nhận là thuộc diện sử dụng vào công
việc của thành phố. Từ đó tôi xin được việc
làm và dần dần ổn định được đời
sống. Tôi đã tìm khắp mọi nẻo đường, từ Sài
Gòn vô Chợ Lớn, Bà Chiểu, Phú
Nhuận, nhất là đường Huyền Trân Công Chúa,
đường có hai chữ Huyền Trân mà tôi
đã nghe anh Giáo thốt ra trong lúc lâm
chung. Nhưng con đường này toàn là biệt
thự, có vẻ là công sở hơn là nhà tư nhân.
Tôi cứ đi qua, đi lại con đường này
không biết bao nhiêu lần. Khi tôi vào hỏi
đều nhận được cái lắc đầu của chủ
nhà. Cũng có lần tôi cầu may lên Thành Ủy
Sài Gòn ở đường Trương Định, quận Ba
để hỏi thăm về đồng chí KVC, Bộ Trưởng Bộ
Công Nghiệp Nhẹ nhưng tôi không qua
được cổng bảo vệ vì khi được hỏi quan hệ như
thế nào với đồng chí bộ trưởng thì
tôi trả lời quanh co mà không chứng minh
được gì cả.
Trong
suốt hai mươi năm ở SàiGòn không tìm được
gia đình anh Giáo thì
tôi được người em vợ bảo lãnh đi Mỹ, định cư
ở Chicago vào cuối năm 1997. Sang
Mỹ tôi vẫn tìm cách thực hiện nguyện vọng
cuối cùng của người bạn quá cố. Tôi
cố gắng dò hỏi trong số bạn bè mà tôi liên
lạc được xem có ai biết gia đình họ
Kha ở đâu không. Một lần nữa tôi không có
tin vui. Điều tôi làm được là cuối
tháng 12 năm 2001 tôi viết lại câu chuyện về
anh Kha Tư Giáo, đặt tựa đề Người
Không Nhận Tội và gửi cho tờ Việt Báo ở
California, mục “ Viết về nước Mỹ ”.
Tôi chọn mục này vì đây là diễn đàn có số
độc giả rất lớn, ở khắp nơi trên thế
giới, biết đâu gia đình anh Giáo sẽ đọc
được. Hy vọng của tôi rất mong manh vì
bài của tôi không nói gì về nước Mỹ mà chỉ
viết về người bạn của mình đã ngã
gục trong tù Cộng Sản. Vậy mà không ngờ, bài
viết cũng được chọn đăng và được
phổ biến trên hệ thống toàn cầu. Tôi lại hồi
hộp chờ đợi bài viết của mình đến
với gia đình anh KTG. Ngày 23 tháng 1 năm
2002 tôi nhận được email của Ban Chủ
Nhiệm Việt Báo chuyển cho cùng với bức điện
thư của anh KTC, em của anh KTG gửi
từ Autin, Texas, báo tin gia đình anh đã đọc
được bài viết của tôi. Bức điện
thư ngắn ngủi nhưng đã gây cho tôi một cảm
xúc mạnh, một niềm vui lớn. Bạn hãy
tưởng tượng cũng biết được là tôi hạnh phúc
như thế nào khi nỗi niềm đã được
giải tỏa, khi ước mơ 25 năm đã thực hiện
được, nhất là ước mơ đó là của người
quá cố, nên có tính cách linh thiêng.
Chiều
chủ nhật 27 tháng 1 năm 2002, tôi đang ở nhà
thì nhận được điện
thọai từ Texas :
-
Hello ! Tôi là KHT, em ruột anh Kha Tư Giáo.
Xin lỗi có phải…
-
Tôi, Duy Nhân đây.
-
Chào anh Duy Nhân ! Có phải anh là tác gỉa
bài viết Người Không Nhân
Tội?
- Tôi
đây chị.
- Hân
hạnh được nói chuyện với anh. Gia đình tôi
đọc được bài viết của
anh trên Internet. Không ngờ sự thật như
vậy..
Tới
đây thì tiếng nói đứt quãng. Tôi nghe được
cả sự nghẹn ngào bên kia
đầu dây. Chị HT quá xúc động. Tôi cũng vậy.
Tôi giữ được im lặng trong một
phút, rồi nói :
- Đây
là giây phút mà tôi chờ đợi suốt hai mươi
lăm năm nay.
- Gia
đình chúng tôi cám ơn anh nhiều lắm.
- Tôi
chỉ làm nhiệm vụ đối với anh Giáo, một người
bạn của tôi.
- Bài
viết của anh nói lên được nhiều điều. Qua
đó, gia đình tôi hiểu rõ
sự thật về anh Giáo, về Cộng Sản mà nhiều
cán bộ cao cấp theo Cộng Sản suốt đời
cũng không hiểu được.
Tôi
lại nghe tiếng nức nở bên kia đầu dây. Chị
HT lại khóc. Sau đó chị
kể cho tôi nghe những sự kiện tiếp theo cái
chết của anh Giáo. Chín tháng sau
khi anh Giáo chết thì Việt Cộng mới báo tin
về gia đình, Họ có hoàn lại cho gia
đình một số vật dụng cá nhân, trong đó có
cặp kính trắng. Bây giờ tới phiên tôi
đau lòng và xót xa khi nghe nhắc tới cặp
kính trắng. Đó chứng tích của sự trả
thù hèn mọn và một chính sách sai lầm đối
với trí thức, đối với người thuộc chế
độ cũ mà tôi là nhân chứng từ đầu tới cuối.
Khi gia đình nhận được giấy báo tử
của anh Giáo thì mẹ và các em đi gặp cán bộ
có chức quyền để hỏi c. Họ nói anh
Giáo nhịn ăn cho tới chết. Mẹ anh hỏi lý do
gì khiến anh Giáo phải tuyệt thực,
anh Giáo có tội gì phải biệt giam, đề nghị
cho xin bản án hoặc biên bản về cái
chết của anh Giáo. Việt Cộng không trả lời.
Mặc dầu uất ức nhưng mẹ anh cố kiềm
nước mắt không bật khóc trước mặt Việt Cộng.
Đến khi mẹ anh Giáo đề nghị được
dẫn đi tìm mộ thì bọn Việt Cộng lại tỏ ra
khó chịu và đòi hối lộ. Cuối cùng, bà
và các em phải đi tìm một mình và dĩ nhiên
là không thể nào tìm được ! Vì quá
đau buồn, mẹ anh Giáo qua đời sau đó ít lâu.
Khi tôi nhắc đến tên Huyền Trân
thì chị nói đó không phải là tên đường mà là
tên của chị. Có lẽ trong lúc lâm
chung anh Giáo gọi tên chị mà tôi tưởng là
tên đường. Chị HT nói cho tới bây
giờ gia đình chị không ai biết anh Giáo nằm
ở đâu. Tôi thì biết rất rõ. Ngôi mộ
quay đề về hướng Đông ở một góc sân banh.
Trên mộ có xuất hiện một cây hoa dại
có bông rất lạ. Ngày xưa mỗi lần đi lao động
về ngang qua ngôi mộ tôi đề bứt
vài bông đem về cắm trong lọ mà tưởng tượng
anh Giáo như còn sống. Anh Giáo đã
chết một cách vô danh mà anh hùng như loài
hoa kia đã dũng cảm vươn lên giữa
khô cằn và gai góc.
Sau
chi HT thì anh KTH, em kế anh Giáo từ bên
Pháp đã liên lạc với tôi
bằng thư và nói chuyện qua điện thọai. Anh
cho biết rõ hơn về tính tình ngay
thẳng, cương trực của anh Giáo. Anh H tỏ ra
rất hãnh diện và tự hào về người
anh của mình, đã chọn cái chết mà không phải
ai cũng làm được. Anh đã thanh
thản đi vào trang sử bi hùng của Quân Lực
VNCH và dân tộc.
Anh Kha Tư Giáo ơi
! Ở một nơi nào đó chắc là anh
đã mãn nguyện vì ước muốn sau cùng của anh
đã được thực hiện, dầu có muộn màng.
Bài mà tôi viết về anh người ta đã lấy dựng
thành kịch (1), cho phổ biến, trình
chiếu khắp nơi mà không xin phép tác giả.
Thôi thì hãy ngậm cười mà tha thứ cho
họ, tha thứ tất cả. Tha thứ cho những kẻ đã
hành hạ anh, những kẻ bỏ đói anh,
tha thứ luôn cho cái chuồng cọp nhốt anh đêm
ngày và cái còng sắt siết chặt tay
anh rớm máu ! Bây giờ đã là ba mươi bốn năm,
vậy mà tôi tưởng như mới ngày
nào…Lịch sử vẫn đang ghi nhận những sự thay
đổi, những bước tiếp diễn lạnh lùng
của nó. Có những điều anh nhận định, anh
mong mỏi bây giờ đã là sự thật, ngọai
trừ Tự Do và Hạnh Phúc cho mọi người. Gia
đình anh có nhiều thay đổi: Mẹ anh đã
qua đời, ông chú anh cũng đã ra đi. Người ta
dùng tên chú anh để đặt tên một
con đường nhỏ ở Thủ Đức nhưng lại viết sai
chính tả ! Anh còn lại những người
thân nhưng đã phân tán mỗi người mỗi ngã. Có
người còn ở Việt Nam, có người ở
Pháp, ở Mỹ…Tôi vẫn đang liên lạc với họ, vẫn
nghe tiếng họ nói mà chưa một lần
gặp mặt. Vậy mà cảm thấy như đã thân quen tự
thuở nào. Về phần tôi, khi nào
điều kiện cho phép tôi sẽ về lại Việt Nam.
Tôi sẽ đi tìm ngôi mộ của anh, sẽ
thắp lên đó một nén hương và trồng bên cạnh
đó một cây sứ có bông màu trắng.
GHI CHÚ :
(1) Bài viết Người
Không Nhận Tội đã được Trung Tâm
Băng Nhạc Asia dàn dựng với cùng tựa đề, do
Ban kịch Sống – Túy Hồng trình diễn
trong cuốn Asia số 36 ( chủ đề Người Lính )
tưởng niệm 27 năm tháng 4 đen
(30/4/1975 – 30/4/ 2002). Bài này được viết
lại tháng 4 năm 2010 để tưởng niệm
35 năm ngày mất nước.
DUY
NHÂN
Keine Kommentare:
Kommentar veröffentlichen