Những Văn
Nghệ sỹ Miền Nam chết bởi sự tàn-độc của CSHà Nội
hoanghaithuy
Lê Xuyên Chú Tư Cầu
Giữa Sài Gòn dâu biển tang thương
Vỉa hè Bà Hạt thuốc lá lẻ.
Nguyệt Ðồng Xoài cùng Vợ Thầy Hương
Bỏ Rặng Trâm Bầu, sang Mỹ, lấy Mỹ.
Cu ky trong Vùng Bão Lửa
Chú Tư Cầu đi đâu, về đâu?
Vỉa hè Bà Hạt thuốc lá lẻ.
Nguyệt Ðồng Xoài cùng Vợ Thầy Hương
Bỏ Rặng Trâm Bầu, sang Mỹ, lấy Mỹ.
Cu ky trong Vùng Bão Lửa
Chú Tư Cầu đi đâu, về đâu?
Từ 1960 với tác phẩm tiểu thuyết đầu tay Chú
Tư Cầu thành công, nổi tiếng ngay, Lê Xuyên viết thật đều, thật nhiều, tiểu
thuyết được in thành sách cũng thật nhiều. Trong bài thơ có tên nhũng tiểu
thuyết cỉa Lê Xuyên được tái bản ở Hoa Kỳ: Nguyệt Ðồng Xoài, Vợ Thầy Hương,
Rặng Trâm Bầu, Vùng Bão Lửa.
Sau năm 1975, qua 20 mùa Sài Gòn mưa nắng,
ngồi bán thuốc lá lẻ trên vỉa hè đường Bà Hạt-Ngô Quyền, từ 5 giờ sáng đến 11
giờ đêm, Chú Tư Cầu Lê Xuyên giã từ dương thế năm 2002. Ảnh chụp khoảng
một năm trứơc ngày Lê Xuyên ra đi.
Vô đề, Vô danh, Vô lọai
Vạc bay rã cánh cuối trời
Diễm Xưa chẳng trọn một đời thủy chung.
Ðá buồn, biển nhớ mịt mùng
Âm cung tiếng phản, tiếng thùng. Thế thôi!
Diễm Xưa chẳng trọn một đời thủy chung.
Ðá buồn, biển nhớ mịt mùng
Âm cung tiếng phản, tiếng thùng. Thế thôi!
.
.
.
.
.
—–
VŨ HOÀNG CHƯƠNG
Một mảnh hồng tiên trĩu ngón tay
Hương mùa thu mất ngậm ngùi bay.
Anh vẫn Hoàng Chương vàng với ngọc,
Trần ai nào lấm được trời mây.
Người về ngôi cũ, Thơ trầm Nhạc
Tàn lửa hồng hoang, khói Mái Tây.
Cười vang một tiếng, tan tinh đẩu
Sáu cửa luân hồi nhẹ cánh bay.
Hương mùa thu mất ngậm ngùi bay.
Anh vẫn Hoàng Chương vàng với ngọc,
Trần ai nào lấm được trời mây.
Người về ngôi cũ, Thơ trầm Nhạc
Tàn lửa hồng hoang, khói Mái Tây.
Cười vang một tiếng, tan tinh đẩu
Sáu cửa luân hồi nhẹ cánh bay.
Bị
bắt tù Tháng Ba năm 1976, đến Tháng 10, 1976 Thi Bá Vũ Hoàng Chương được trở về
nhà ở Khánh Hội, Thi Bá qua đời chừng sáu, bẩy ngày sau khi về nhà.
.
.
—–
Bùi Giáng
Lá cồn hay lá hoa cồn?
Tồn liên tồn vẫn liên tồn bấy lâu.
Hỏi Quê, rằng biển xanh dâu.
Hỏi Thơ, rằng mộng ban đầu vấn vương.
Em về rũ yếm mù sương
Ngàn năm châu chấu vẫn thương cào cào.
Mân-rô ơi, có đêm nào
Mồ anh em hé Ðộng Ðào suối tuôn.
Lá cồn hoa cũng lên cồn
Mười hai con mắt liên tồn mười hai.
Tồn liên tồn vẫn liên tồn bấy lâu.
Hỏi Quê, rằng biển xanh dâu.
Hỏi Thơ, rằng mộng ban đầu vấn vương.
Em về rũ yếm mù sương
Ngàn năm châu chấu vẫn thương cào cào.
Mân-rô ơi, có đêm nào
Mồ anh em hé Ðộng Ðào suối tuôn.
Lá cồn hoa cũng lên cồn
Mười hai con mắt liên tồn mười hai.
Nghe nói Tập Thơ LÁ HOA CỒN của Bùi
Giáng xuất bản năm 1968 được Thi Sĩ tác giả đặt tên là LÁ CỒN. Quí vị
biên tập trong nhà Xuất Bản – tôi không nhớ là Nhà An Tiêm hay Nhà Lá Bối –
thấy cái tên LÁ CỒN.. kỳ kỳ sao đó nên đổi là LÁ HOA CỒN.
Từ 1970 đến nay không thấy LÁ HOA CỒN được tái bản. Hơn 40 mùa thu xưa
tôi đọc LÁ HOA CỒN, thấy câu Thi sĩ kể trong một đêm mà:
Cồn lê lên miệng đến hai, ba lần…
Tôi nghĩ: Một đêm cồn lê lên miệng hai
lần may ra còn sống được, một đêm mà cồn lê lên miệng đến ba lần..! Chắc
chết quá!
Một trong số hai, ba Giai Nhân đương thời
được Thi sĩ ca tụng nhan sắc và tỏ tình yêu là Cô Ðào Marilyn Monroe. Thi sĩ
từng ước mơ sau khi ông chết, ông sẽ cảm động lắm nếu ông được Người Ðẹp
Marilyn Monroe đến đái trên mồ ông.
Năm 1970 Chủ nhiệm nhật báo SỐNG Chu Tử
mời Thi sĩ Bùi Giáng viết tiểu thuyết phơi-ơ-tông đăng mỗi ngày trên Nhật Báo
Sống. Tôi không nhớ tên truyện, chỉ nhớ Tiểu Thuyết Gia Bùi Giáng viết lọai
truyện võ hiệp Trung Hoa, các đại hiệp, nữ hiệp thi triển võ công, đánh
kiếm..vv.. Trong truyện ông cho nam nữ nhân vật nói đi, nói lại rất nhiều
lần những tiếng“liên tồn, tồn liên.” Truyện của ông gần như ngày nào,
trang nào cũng có hai tiếng ấy. Như:
Làn môi hồng của nàng nở nụ cười tồn liên.
Nàng thu kiếm lại, chắp tay, dịu dàng nói:
– Cám ơn Ðại hiệp đã có nhã ý liên tồn.
Sau cuộc biển dâu, Thơ Bùi Giáng vẫn có
những tiếng “liên tồn, tồn liên” không khác gì Thơ Bùi Giáng Lá Hoa
Cồn trước 1975. Ðây là vài câu trích trong thi phẩm Mười Hai Con Mắt,
xuất bản năm 2000:
Chuyện Chiêm bao,
Mười Hai Con Mắt.
Mộng ảo liên tồn vô mịch xứ
Phù du liêu lạc khởi năng kiêu.
Mộng ảo liên tồn vô mịch xứ
Phù du liêu lạc khởi năng kiêu.
Ðêm nằm thao thức tới bình minh
Nửa khóc, nửa cười quỉ hóa tinh.
Ú ớ liên tồn vi diệu ngữ
Ậm ừ tục tiếp quái quỉ thanh.
Nửa khóc, nửa cười quỉ hóa tinh.
Ú ớ liên tồn vi diệu ngữ
Ậm ừ tục tiếp quái quỉ thanh.
Gặp Em
Gặp Em ngồi tựa gốc cây
Hỏi Em có biết chiều nay mấy giờ
Mưa nguồn đổ xuống trang thơ
Lá hoa cồn lũng bất ngờ chịu chơi…
Hỏi Em có biết chiều nay mấy giờ
Mưa nguồn đổ xuống trang thơ
Lá hoa cồn lũng bất ngờ chịu chơi…
—–
NGUYỄN MẠNH CÔN
Lính Nhẩy Dù lâm nạn ba người,
Nhà Văn lâm nạn một mình thôi.
Sông Rây nước chẩy, mây trôi.
Nhớ về Xuyên Mộc, bồi hồi thương Anh.
Nhà Văn lâm nạn một mình thôi.
Sông Rây nước chẩy, mây trôi.
Nhớ về Xuyên Mộc, bồi hồi thương Anh.
Nhà Văn Nguyễn Mạnh Côn viết những tác
phẩm Ba Người Lính Nhẩy Dù Lâm Nạn, Ðem Tâm Tình Viết Lịch Sử, Kỳ Hoa Tử,
Tình Cao Thượng, Mối Tình Mầu Hoa Ðào, Hòa Bình.. Nghĩ gì, Làm gì? Tháng Ba
năm 1976 ông bị bọn Công An Cộng Sản Thành Hồ bắt giam. Năm 1979 ở Trại Tù Khổ
Sai Xuyên Mộc, Nhà Văn tuyệt thực phản đối việc ông bị cầm tù quá lâu. Bọn Cai
Tù Xuyên Mộc không cho ông uống nước, Nhà Văn chết thảm trong trại tù Xuyên
Mộc.
Sông Rây chẩy qua vùng rừng bao quanh Trại
Tù Khổ Sai Xuyên Mộc, Bà Rịa. Người Tù Xuyên Mộc những năm 1978, 1979 có câu:
Bao giờ Rừng Thác hết cây
Sông Rây hết nước thì đây mới về.
Sông Rây hết nước thì đây mới về.
Cùng sống và chịu cực khổ với Nhà Văn
Nguyễn Mạnh Công ở Trại Tù Xuyên Mộc những năm 1978, 1979 là Duyên Anh, Ðằng
Giao, Hồ Hữu Tường. Năm 1983 gặp lại nhau sau những ngày tù tội, Duyên Anh đọc
cho tôi nghe câu “..Sông Rây hết nước..” Tôi không nhớ đúng tên Rừng
trong câu thơ. Có thể không phải là Rừng Thác.
Bao giờ Rừng Thác hết cây,
Sông Rây hết nước thì đây mới về.
Sông Rây hết nước thì đây mới về.
—–
Dương Hùng Cường
Chém cha bọn Cộng trâu bò
Cà Kê Dê Ngỗng nó cũng cho đi tù.
Phi trường đèn tắt, điện lu
Lái Thiêu Dê Húc, Ðạo Cù Paris.
Cà Kê Dê Ngỗng nó cũng cho đi tù.
Phi trường đèn tắt, điện lu
Lái Thiêu Dê Húc, Ðạo Cù Paris.
Dương Hùng Cường, bút hiệu Dê Húc Càn, một
thời giữ mục Cà Kê Dê Ngỗng trên Tuần báo CON ONG. Là sĩ quan,
Dương Hùng Cường đi tù khổ sai đến năm 1979. Năm 1980 DH Cường liên lạc được
với Trung Tá Không Quân Trần Tam Tiệp ở Paris. Trước năm 1975 TTTiệp thường có
Thơ Khôi Hài đăng trên Tuần báo CON ONG với bút hiệu Ðạo Cù. Khi ấy ông
họat động trong Hội Văn Bút Quốc Tế, ông làm được nhiều việc giúp đỡ một số văn
nghệ sĩ ở Sài Gòn cả về tinh thần và vật chất.
Năm 1984 Dương Hùng Cường bị bắt vì tội “viết
bài gửi ra nước ngoài”. Năm 1986 Cường chết trong một sà-lim ở Nhà Tù Số 4
Phan đăng Lưu, Sài Gòn. Bị nhốt một mình trong sà-lim, Cường chết trong đêm.
Bọn Công An Thành Hồ đưa xác Cường về Nhà Xác Nhà Tù Chí Hòa cho bọn gọi là bọn
Pháp Y Sĩ mổ xẻ tanh banh, rồi gọi vợ con Cường đến Nhà Xác Chí Hòa nhìn
mặt Cường lần cuối, chúng không cho đem xac Cường về nhà mà cho ngay vào quan
tài, cho xe của Nhà Tù đưa lên chôn ở một nghĩa trang trên Lái Thiêu.
Một trong những tác phẩm Dương Hùng Cường
để lại đời là BUỒN VUI PHI TRƯỜNG viết về cuộc sống của những người lính
Không Quân ở những phi trường quân sự.
Ðạo Cù Trần Tam Tiệp, bị bại liệt, đã từ
trần ở Paris.
—–
Đạo diễn HOÀNG VĨNH LỘC
Người Tình mất hết chân tay
Trái tim Hoàng gửi nơi này quê hương.
Sài Gòn Bến Cũ mù sương
Nhớ ơi Vĩnh Lộc trên đường Bô Na.
Trái tim Hoàng gửi nơi này quê hương.
Sài Gòn Bến Cũ mù sương
Nhớ ơi Vĩnh Lộc trên đường Bô Na.
Hoàng Vĩnh Lộc bị bắt Tháng Ba năm 1976
trong đợt bọn Công An Cộng Sản bắt tù những văn nghệ sĩ Sài Gòn. HV Lộc bị tù ở
Nhà Tù Số 4 Phan đăng Lưu. Trong số những bộ phim Hoàng Vĩnh Lộc làm đạo diễn
có hai phim nổi tiếng là NGƯỜI TÌNH KHÔNG CHÂN DUNG, XIN NHẬN NƠI NÀY LÀ QUÊ
HƯƠNG. Trở về nhà ở Phú Nhuận, HV Lộc từ trần trong sầu muộn năm 1981.
Vào lúc gần tối một ngày mùa mưa tôi đến
nhà Hoàng Vĩnh Lộc chào anh lần cuối. Hôm nay khi viết những dòng chữ này, tôi
thấy ẩn hiện những hình, những ảnh buổi chiều gần tối năm xưa, tôi ngồi dưới
tấm bạt căng trên bãi cỏ trứơc nhà làm chỗ tiếp khách đến viếng tang, nghe
tiếng mưa rơi lộp bộp trên tấm bạt, nhìn vào căn nhà nhỏ thấy quan tài của anh
với mấy ngọn nến nhỏ leo lét.
Tôi nhìn thấy Hoàng Vĩnh Lộc lần đầu vào
một buổi chiều năm 1952. Lúc ba, bốn giờ chiều, nắng vừa dìu dịu, tôi đứng trên
vỉa hè đường Bô-na, trước Hàng Ăn Kim Hoa, cạnh rạp Xi-nê Casino de Saigon,
thấy Hoàng Vĩnh Lộc đến trên chiếc xe Peugeot Mui Trần, thường được gọi là xe
Peugeot 203 Decapotable. Chiều ấy HV Lộc bận toàn đồ trắng, chiếc xe anh đi
cũng mầu trắng. Năm 1952 HV Lộc đóng vai chính trong phim BẾN CŨ, phim
mầu, của AnPha Thái Thúc Nha. Phim chưa chiếu, anh đã được coi là một jeune
premier của Ðiện Ảnh Sài Gòn.
Tôi nhớ mãi hình ảnh ấy của Hoàng Vĩnh Lộc
buổi chiều nắng vàng năm 1952 trên đường Bô-na; đã 60 mùa thu lá bay, tôi vẫn
nhớ. Năm xưa ấy trên đường Bô-na, Sài Gòn, Hoàng Vĩnh Lộc 30 tuổi, tôi 20.
—–
Nhà văn HIẾU CHÂN NGUYỄN HOẠT
Trăng Nước Ðồng Nai vui Tỵ Bái
Chí Hòa lao ngục thở hơi tàn.
La Khê Công Tử Hiếu Chân
Nói hay Ðừng vẳng cung đàn Liêu Trai.
Chí Hòa lao ngục thở hơi tàn.
La Khê Công Tử Hiếu Chân
Nói hay Ðừng vẳng cung đàn Liêu Trai.
Những năm 1956, 1957, Nhà Văn Nguyễn Họat
viết truyện dàiTRĂNG NƯỚC ÐỒNG NAI trên Nhật báo TỰ DO. Sau đó
anh viết truyệnTỵ Bái, dịch truyện LIÊU TRAI, giữ mục Nói hay
Ðừng trên Nhật báo TỰ DO. Anh bị bắt cùng với các văn nghệ sĩ Doãn Quốc Sĩ,
Dương Hùng Cường, Duy Trác và bị khép vào cùng một nhóm gọi là nhóm Biệt
Kích Cầm Bút. Anh từ trần trong đêm ở Nhà Tù Chí Hòa năm 1988.
Quê ngọai của anh Nguyễn Họat ở làng La
Khê ngay bên thị xã Hà Ðông. Có năm anh dậy học ở Trường Tư Thục Tự Ðức trong
thị xã, tôi là học trò của anh.
—–
Phạm Thiên Thư
Ai về hỏi Phạm Thiên Thư
Ngày xưa Hoàng Thị bây chừ ở đâu?
Ðộng Hoa Vàng có tên nhau
Sao nhau tình nghĩa qua cầu gió bay?
Hẹn nhau tròn cuộc nhau này
Sao nhau cánh dzế chồn lây đổi mầu?
Ðã buồn Từ Thức lấm đầu,
Lại thương Hoàng Thị về đâu bây giờ?
Ngày xưa Hoàng Thị bây chừ ở đâu?
Ðộng Hoa Vàng có tên nhau
Sao nhau tình nghĩa qua cầu gió bay?
Hẹn nhau tròn cuộc nhau này
Sao nhau cánh dzế chồn lây đổi mầu?
Ðã buồn Từ Thức lấm đầu,
Lại thương Hoàng Thị về đâu bây giờ?
Những năm 1980, Phạm Thiên Thư làm thơ
Chào Mừng Sinh Nhật Hồ Chủ Tịch. Ông làm nhiều Thơ ca tụng cuộc sống trong sáng
của nhân dân trong chế độ xã hội chủ nghĩa và gọi loai Thơ này là Thơ Hồng.
Nữ nghệ sĩ Hồ Điệp
Một người trong số những nghệ sĩ của Quốc
Gia Việt Nam Cộng Hòa từ trần sau Ngày 30 Tháng Tư 1975 ít được người đời nhắc
đến nhất là Nữ Nghệ Sĩ Hồ Ðiệp, giọng ngâm Thơ tuyệt vời của Ban Thi Văn Tao
Ðàn, Ðài Phát Thanh Quốc Gia VNCH.
Không phải vì vô tình mà người ta không
nhớ, không thương những người đã khuất như Nữ nghệ sĩ Hồ Ðiệp. Trong những năm
u ám sau 1975 người Sài Gòn chết thảm quá nhiều, người chết trong tù ngục công
sản, người chết trên biển, người chết trong rừng, nhìn đâu cũng thấy tang tóc,
đau thương, những người chưa chết thần hồn và trái tim tan nát, họ thấy cuộc
sống của họ không biết còn mất lúc nào, người ta không còn tinh thần để nhớ, để
thương những người mất tích.
Nữ nghệ sĩ Hồ Ðiệp đi vượt biên đêm
nào, tháng nào, năm nào? Chắc chỉ có thân nhân của bà được biết. Nữ nghệ sĩ đi
và mất tích. Thân xác Hồ Ðiệp từ lâu rồi nằm dươi đáy biển Ðông. Sáng nay, một
sáng Tháng Bẩy ở Xứ Người, tôi trái tim sầu muộn, tưởng nhớ những văn nghệ sĩ
Sài Gòn đã giã từ dương thế kể từ sau Ngày Oan Nghiệt 30 Tháng Tư 75. Người Thứ
Nhất tôi tưởng nhớ hôm nay là Nữ Nghệ Sĩ Hồ Ðiệp.
Năm 1960 yên bình trong một cuộc họp mặt
của một số văn nghệ sĩ ở Sài Gòn, có Vũ Hoàng Chương, Hồ Ðiệp, Mặc Thu. Trước
năm 1954, ở Hà Nội, Nhà Văn Mặc Thu viết hai tác phẩm “Gang Thép Ðợi Chờ”
và “Bát Cơm, Bát Máu.” Thi bá Vũ Hoàng Chương làm hai câu Thơ tặng Hồ
Ðiệp, Mặc Thu;
Mưa cầm, gió bắt thương Hồ Ðiệp.
Thép đợi, gang chờ xót Mặc Thu.
Thép đợi, gang chờ xót Mặc Thu.
Hôm nay 50 năm sau buổi chiều xưa Thi bá
làm hai câu “Mưa cầm, gió bắt, thép đợi, gang chờ..,” tôi, kẻ mất
nước sống buồn những ngày thừa ở xứ người, tôi, cánh bướm già sống sót qua cuộc
mưa cầm, gió bắt dài đến 20 mùa lá đổ ở Sài Gòn, tôi không có thép, có gang gì
cả mà nếu có thì cũng không thép đợi, gang chờ mà thép mòn, gang rỉ, nhớ những
ngày xưa và những người nay không còn nữa, cảm khái tôi tiếp hai câu của Thi
bá, làm thành:
Mưa cầm, gió bắt thương Hồ Ðiệp.
Thép đợi, gang chờ xót Mặc Thu.
Ðiệp bay ra biển sương mù,
Có về đâu nữa, đất Hồ ngàn năm!
Thép đợi, gang chờ xót Mặc Thu.
Ðiệp bay ra biển sương mù,
Có về đâu nữa, đất Hồ ngàn năm!
—–
hoanghaithuy
__._,_.___
Mời xem BLOG http://www.vn-share-news.com ,thêm section
ENGLISH
VN-SHARE-NEWS là diễn đàn của người Việt Nam có cùng quan tâm và tham gia vận động dân chủ cho Việt Nam; dùng để trao đổi thông tin, chia sẻ quan điểm, thảo luận những vấn đề liên quan đến VN, đặc biệt trong lĩnh vực tự do, dân chủ, dân tộc và nhân quyền; trong tinh thần tương kính, hòa nhã, tôn trọng mọi khác biệt.
Gửi bài đăng, email javascript:_e(%7B%7D,'cvml','vn-share-news@googlegroups.com');
Ghi tên gia nhập VN-SHARE-NEWS, email javascript:_e(%7B%7D,'cvml','vn-share-news%2Bowners@googlegroups.com');
Không nhận email nữa, email javascript:_e(%7B%7D,'cvml','vn-share-news%2Bunsubscribe@googlegroups.com');
Đọc các email đã đăng, vào http://groups.google.com/group/vn-share-news
Liên lạc moderator, email javascript:_e(%7B%7D,'cvml','bandieuhop@gmail.com');
Chúng tôi xin được xóa các ý kiến phê bình cá nhân hay không phù hợp với chủ trương của diễn đàn. Bạn đọc nào không theo đúng tinh thần hòa nhã tương kính, thì chúng tôi sẽ rút tên, mời ra khỏi diễn đàn; và sẽ đăng tên lên diễn đàn khi cần thiết và thuận tiện.
Ban Điều Hợp VNSN
---
Keine Kommentare:
Kommentar veröffentlichen