KINH CHUYEN TIEP DE TUY NGHI,
MUOITHANH
Thân
chuyển : Một chính thể đầy nhân bản để xây dựng một con người hữu dụng cho
tương lai với một đất nước văn minh phú cường đành chết <non> , để một
loài < ác quỷ làm tan nát Quê Hương VN .
Nhìn lại nền Giáo dục VNCH : Sự tiếc nuối
vô bờ bến
Huỳnh Minh
Tú
Nhìn lại nền Giáo dục VNCH :
Sự tiếc nuối vô bờ bến
Sách giáo
khoa thời VNCH
Giáo dục Việt
Nam Cộng Hòa là nền giáo dục Việt Nam dưới
chính thể Việt Nam Cộng Hòa. Triết
lý giáo dục của Việt Nam Cộng hòa là Nhân bản,
Dân tộc, và Khai phóng. Hiến pháp Việt Nam Cộng Hòa nhấn mạnh quyền tự do giáo dục, và
cho rằng “nền giáo dục cơ bản có tính cách cưỡng bách và miễn phí”, “nền
giáo dục đại học được tự trị”, và “những người có khả năng mà
không có phương tiện sẽ được nâng đỡ để theo đuổi học vấn”.
Hệ thống
giáo dục Việt Nam Cộng Hòa gồm tiểu học, trung học, và đại học, cùng với một mạng
lưới các cơ sở giáo dục công lập, dân lập, và tư thục ở cả ba bậc học và hệ thống
tổ chức quản trị từ trung ương cho tới địa phương.
Phòng thí
nghiệm ở Viện Pasteur Sài Gòn (Internet)
Tổng quan
Từ năm 1917,
chính quyền thuộc địa Pháp
ở Việt Nam đã có một hệ thống giáo dục thống nhất cho cả ba miền Nam, Trung, Bắc,
và cả Lào cùng Campuchia. Hệ thống giáo dục thời Pháp thuộc có ba bậc: tiểu học,
trung học, và đại học. Chương trình học là chương trình của Pháp, với một chút
sửa đổi nhỏ áp dụng cho các cơ sở giáo dục ở Việt Nam, dùng tiếng Pháp làm ngôn
ngữ chính, tiếng Việt chỉ là ngôn ngữ phụ. Sau khi Việt Nam tuyên bố độc lập
vào năm 1945, chương trình học của Việt Nam – còn gọi là chương trình Hoàng Xuân Hãn (ban hành
thời chính phủ Trần Trọng Kim - được đem ra áp dụng ở miền Trung và miền Bắc.
Riêng ở miền
Nam, vì có sự trở lại của người Pháp nên chương trình Pháp vẫn còn tiếp
tục cho đến giữa thập niên 1950. Đến thời Đệ Nhất Cộng Hòa thì chương trình Việt
mới được áp dụng ở miền Nam để thay thế cho chương trình Pháp. Cũng từ đây, các
nhà lãnh đạo giáo dục Việt Nam mới có cơ hội đóng vai trò lãnh đạo thực sự của
mình.
Một buổi lễ
khánh thành tượng Petrus Ký trong khuôn
viên ( công viên 30/4 hiện tại ), nằm trên đường Boulevard Norodom – ( Đại Lộ
Thống Nhất trước Dinh Độc Lập, hướng về Nhà Thờ Đức Bà ).
Ngay từ những ngày đầu hình thành nền Đệ Nhất Cộng Hòa, những
người làm công tác giáo dục ở miền Nam đã xây dựng được nền móng quan trọng cho
nền giáo dục quốc gia, tìm ra câu trả lời cho những vấn đề giáo dục cốt yếu. Những
vấn đề đó là: triết lý giáo dục, mục tiêu giáo dục, chương trình học, tài liệu
giáo khoa và phương tiện học tập, vai trò của nhà giáo, cơ sở vật chất và trang
thiết bị trường học, đánh giá kết quả học tập, và tổ chức quản trị.
Nhìn chung, người ta thấy mô hình giáo dục ở Miền Nam Việt Nam
trong những năm 1970 có khuynh hướng xa dần ảnh hưởng của Pháp vốn chú trọng
đào tạo một số ít phần tử ưu tú trong xã hội và có khuynh hướng thiên về lý thuyết,
để chấp nhận mô hình giáo dục Hoa Kỳ có tính cách đại chúng và thực tiễn.
Năm học 1973-1974, Việt Nam Cộng Hòa có một phần năm (20%) dân số
là học sinh và sinh viên đang đi học trong các cơ sở giáo dục. Con số này bao gồm
3.101.560 học sinh tiểu học, 1.091.779 học sinh trunghọc, và 101.454 sinh
viên đại học; số người biết đọc biết viết ước tính khoảng 70% dân số. Đến
năm 1975, tổng số sinh viên trong các viện đại học ở miền Nam là khoảng 150.000
người (không tính các sinh viên theo học ở Học viện Hành Chính Quốc Gia
và ở các trường đại học cộng đồng).
Cảnh giờ rước
học sinh tan trường.
Mặc dù tồn tại
chỉ trong 20 năm (từ 1955 đến 1975), bị ảnh hưởng nặng nề bởi chiến
tranh và những bất ổn chính trị thường xảy ra, phần thì ngân sách eo hẹp do phần
lớn ngân sách quốc gia phải dành cho quốc phòng và nội vụ (trên 40% ngân sách
quốc gia dành cho quốc phòng, khoảng 13% cho nội vụ, chỉ khoảng 7-7,5% cho giáo
dục), nền giáo dục Việt Nam Cộng Hòa đã phát triển vượt bậc, đáp ứng được
nhu cầu gia tăng nhanh chóng của người dân, đào tạo được một lớp người có học vấn
và có khả năng chuyên môn đóng góp vào việc xây dựng quốc gia và tạo được sự
nghiệp vững chắc ngay cả ở các quốc gia phát triển.
Kết quả này
có được là nhờ các nhà giáo có ý thức rõ ràng về sứ mạng giáo dục, có ý
thức trách nhiệm và lương tâm nghề nghiệp, đã sống cuộc sống khiêm nhường để
đóng góp trọn vẹn cho nghề nghiệp, nhờ nhiều bậc phụ huynh đã đóng góp công sức
cho việc xây dựng nền giáo dục quốc gia, và nhờ những nhà lãnh đạo giáo dục đã
có những ý tưởng, sáng kiến, và nỗ lực mang lại sự tiến bộ cho nền giáo dục ở
Miền Nam Việt Nam.
Giáo sư (th
ầy c ô) thời VNCH
Triết lý giáo
dục
Năm 1958, dưới
thời Bộ trưởng Bộ Quốc gia Giáo dục Trần Hựu Thế, Việt Nam Cộng
Hòa nhóm họp Đại hội Giáo dục Quốc gia (lần I) tại Sài Gòn. Đại hội này quy tụ
nhiều phụ huynh học sinh, thân hào nhân sĩ, học giả, đại diện của quân đội,
chính quyền và các tổ chức quần chúng, đại diện ngành văn hóa và giáo dục các cấp
từ tiểu học đến đại học, từ phổ thông đến kỹ thuật… Ba nguyên tắc “nhân bản”
(humanistic), “dân tộc” (nationalistic), và “khai phóng”
được chính thức hóa ở hội nghị này.
Đây là những
nguyên tắc làm nền tảng cho triết lý giáo dục của Việt Nam Cộng Hòa, được ghi cụ
thể trong tài liệu Những nguyên tắc căn bản do Bộ Quốc gia Giáo dục ấn
hành năm 1959 và sau đó trong Hiến Pháp Việt Nam Cộng Hòa
(1967).
Khóa Hội Thảo
Cải Tổ Chương Trình Sư Phạm.
1. Giáo dục
Việt Nam Cộng Hòa là giáo dục nhân bản.
Triết lý
nhân bản chủ trương con người có địa vị quan trọng trong thế gian này; lấy con người làm gốc, lấy cuộc
sống của con người trong cuộc đời này làm căn bản; xem con người như một cứu
cánh chứ không phải như một phương tiện hay công cụ phục vụ cho mục tiêu của bất
cứ cá nhân, đảng phái, hay tổ chức nào khác.
Triết lý
nhân bản chấp nhận có sự khác biệt giữa các cá nhân, nhưng không chấp nhận việc
sử dụng sự khác biệt đó để đánh giá conngười, và không chấp nhận sự kỳ thị hay
phân biệt giàu nghèo, địa phương, tôn giáo, chủng tộc… Với triết lý nhân bản, mọi
người có giá trị như nhau và đều có quyền được hưởng những cơ hội đồng đều về
giáo dục.
Giáo sư (thầy cô) thời VNCH
2. Giáo dục
Việt Nam Cộng Hòa là giáo dục dân tộc.
Giáo dục tôn
trọng giá trị truyền thống của dân tộc trong mọi sinh hoạt liên hệ tới gia
đình, nghề nghiệp, và quốc gia. Giáo dục phải bảo tồn và phát huy được những
tinh hoa hay những truyền thống tốt đẹp của văn hóa dân tộc. Dân tộc tính trong văn hóa cần phải được các thế hệ biết đến, bảo tồn và phát huy, để không bị mất đi hay tan biến trong những
nền văn hóa khác.
Sinh viên đại học Dược Khoa Sài Gòn gói bánh chưng để đem giúp đồng bào miền Trung bị bão lụt năm Thìn 1964.
3. Giáo dục
Việt Nam Cộng Hòa là giáo dục khai phóng.
Tinh thần
dân tộc không nhất thiết phải bảo thủ, không nhất thiết phải đóng cửa. Ngược lại,
giáo dục phải mở rộng, tiếp nhận những kiến thức khoa học kỹ thuật tân tiến
trên thế giới, tiếp nhận tinh thần dân chủ, phát triển xã hội, giá trị văn hóa
nhân loại để góp phần vào việc hiện đại hóa quốc gia và xã hội, làm cho xã hội
tiến bộ tiếp cận với văn minh thế giới.
Từ những
nguyên tắc căn bản ở trên, chính quyền Việt Nam Cộng Hòa đề ra những mục tiêu
chính sau đây cho nền giáo dục của mình. Những mục tiêu này được đề ra là để nhằm
trả lời cho câu hỏi: Sau khi nhận được sự giáo dục, những người đi học sẽ trở
nên người như thế nào đối với cá nhân mình, đối với gia đình, quốc gia, xã hội,
và nhân loại.
Mục tiêu
giáo dục thời VNCH:
Bích chương
của Sở Giáo Dục – Bộ Y Tế VNCH
1. Phát
triển toàn diện mỗi cá nhân.
Trong tinh
thần tôn trọng nhân cách và giá trị của cá nhân học sinh, giáo dục hướng vào việc
phát triển toàn diện mỗi cá nhân theo bản tính tự nhiên của mỗi người và theo
những quy luật phát triển tự nhiên cả về thể chất lẫn tâm lý. Nhân cách và khả năng riêng của học sinh được lưu ý đúng mức.
Cung cấp cho học sinh đầy đủ thông tin và dữ kiện để học sinh phán đoán, lựa chọn;
không che giấu thông tin hay chỉ cung cấp những thông tin chọn lọc thiếu trung
thực theo một chủ trương, hướng đi định sẵn nào.
Thanh nữ Việt Nam Cộng Hòa
2. Phát triển tinh thần quốc gia ở mỗi học sinh.
Điều này thực hiện bằng cách: giúp học sinh hiểu biết
hoàn cảnh xã hội, môi trường sống, và lối sống của người dân; giúp học sinh hiểu biết lịch sử nước nhà,
yêu thương xứ sở mình, ca ngợi tinh thần đoàn kết, tranh đấu của người dân
trong việc chống ngoại xâm bảo vệ tổ quốc; giúp học sinh học tiếng Việt và sử dụng
tiếng Việt một cách có hiệu quả; giúp học sinh nhận biết nét đẹp của quê hương xứ sở, những tài nguyên
phong phú của quốc gia, những phẩm hạnh truyền thống của dân tộc; giúp học sinh bảo tồn những truyền thống
tốt đẹp, những phong tục giá trị của quốc gia; giúp học sinh có tinh thần tự
tin, tự lực, và tự lập.
Người dân miền
Nam biểu tình phản đối Trung Quốc đánh chiếm Hoàng Sa, năm 1974.
3. Phát
triển tinh thần dân chủ và tinh thần khoa học.
Điều này thực
hiện bằng cách: giúp học sinh tổ chức những
nhóm làm việc độc lập qua đó phát triển tinh thần cộng đồng và ý thức tập thể; giúp học sinh phát triển óc phán đoán với tinh thần trách nhiệm
và kỷ luật; giúp phát triển tính tò mò và tinh thần
khoa học; giúp học sinh có khả năng tiếp nhận những giá trị văn hóa của
nhân loại.
Mặt tiền của
Viện Đại Học Sài Gòn (Số 3 Công Trường
Chiến Sĩ)
Giáo dục tiểu học:
Chiến Sĩ)
Giáo dục tiểu học:
Một lớp tiểu
học ở miền Nam vào năm 1961.
Bậc tiểu học
thời Việt Nam Cộng hòa bao gồm năm lớp, từ lớp 1 đến lớp 5 (thời Đệ Nhất Cộng
Hòa gọi là lớp Năm đến lớp Nhất). Theo quy định của hiến
pháp, giáo dục tiểu học là giáo dục phổ cập (bắt buộc). Từ thời Đệ Nhất Cộng
Hòa đã có luật quy định trẻ em phải đi học ít nhất ba năm tiểu học. Mỗi năm học
sinh phải thi để lên lớp. Ai thi trượt phải học “đúp”, tức học lại lớp đó. Các
trường công lập đều hoàn toàn miễn phí, không thu học phí và các khoản lệ phí
khác.
Số liệu
giáo dục bậc tiểu học[8]
|
||
Niên học
|
Số học
sinh
|
Số lớp học
|
1955
|
400.865
|
8.191
|
1957
|
717.198[9]
|
|
1960
|
1.230.000[9]
|
|
1963
|
1.450.679
|
30.123
|
1964
|
1.554.063[10]
|
|
1970
|
2.556.000
|
44.104
|
Học sinh tiểu
học chỉ học một buổi, sáu ngày mỗi tuần. Theo quy định, một ngày được
chia ra 2 ca học; ca học buổi sáng và ca học buổi chiều.
Vào đầu thập
niên 1970, Việt Nam Cộng Hòa có 2,5 triệu học sinh tiểu học, chiếm hơn
80% tổng số thiếu niên từ 6 đến 11 tuổi; 5.208 trường tiểu học (chưa kể
các cơ sở ở Phú Bổn, Vĩnh Long và Sa Đéc).
Học sinh lớp
Nhất, lớp Nhì hồi xưa – ( Lớp Bốn lớp Năm bây giờ ).Tất cả trẻ
em từ 6 tuổi đều được nhận vào lớp Một để bắt đầu bậc tiểu học. Phụ huynh có thể
chọn lựa cho con em vào học miễn phí cho hết bậc tiểu học trong các trường công
lập hay tốn học phí (tùy trường) tại các trường tiểu học tư thục.
Lớp 1 (trước
năm 1967 gọi là lớp Năm) cấp tiểu học mỗi tuần học 25 giờ, trong đó 9,5 giờ
môn Quốc văn; 2 giờ Bổn phận công dân và Đức dục (còn gọi
là lớp Công dân giáo dục). Lớp 2 (trước năm 1967 gọi là lớp Tư), Quốc
văn giảm còn 8 tiếng nhưng thêm 2 giờ Sử ký và Địa lý. Lớp 3 trở lên thì ba môn
Quốc văn, Công dân và Sử Địa chiếm 12-13 tiếng mỗi tuần.
Một năm học
kéo dài chín tháng, nghỉ ba tháng hè. Trong năm học có khoảng 10 ngày nghỉ lễ
(thông thường vào những ngày áp Tết).
Giáo dục
trung học:
Tính đến đầu
những năm 1970, Việt Nam Cộng Hòa có hơn 550.000 học sinh trung học, tức
hơn 20% tổng số thanh thiếu niên ở lứa tuổi từ 12 đến 18; có 534 trường trung học
(chưa kể các cơ sở ở Vĩnh Long và Sa Đéc).
Đến năm 1975
thì có khoảng 900.000 học sinh ở các trường trung học công lập. Các trường
trung học công lập nổi tiếng thời đó có Petrus Ký, Chu Văn An, Võ Trường
Toản, Trưng Vương, Gia Long, Lê Quý Đôn (Sài Gòn) tiền thân là Trường
Chasseloup Laubat, Quốc Học (Huế), Trường Trung học Phan Chu Trinh (Đà Nẵng),
Nguyễn Đình Chiểu (Mỹ Tho), Phan Thanh Giản (Cần Thơ)…
Các trường
công lập đều hoàn toàn miễn phí, không thu học phí và các khoản lệ phí khác.
Tên gọi
năm lớp bậc tiểu học
|
|
trước 1971
|
sau 1971
|
lớp năm
|
lớp một
|
lớp tư
|
lớp hai
|
lớp ba
|
lớp ba
|
lớp nhì
|
lớp tư
|
lớp nhất
|
lớp năm
|
Tên các lớp
bậc trung học đệ nhất cấp
|
|
lớp đệ thất
|
lớp sáu
|
lớp đệ lục
|
lớp bảy
|
lớp đệ ngũ
|
lớp tám
|
lớp đệ tứ
|
lớp chín
|
Tên các lớp
trung học đệ nhị cấp
|
|
lớp đệ tam
|
lớp mười
|
lớp đệ nhị
|
lớp 11
|
lớp đệ nhất
|
lớp 12
|
Trung học đệ
nhất cấp:
Trường Trung
học Cộng đồng Quận 8 năm 72- 73
Trung học đệ
nhất cấp bao gồm từ lớp 6 đến lớp 9 (trước năm 1971 gọi là lớp đệ thất
đến đệ tứ), tương đương trung học cơ sở hiện nay. Từ tiểu học phải
thi vào trung học đệ nhất cấp. Đậu vào trường trung học
công lập không dễ. Các trường trung học công lập
hàng năm đều tổ chức tuyển sinh vào lớp Đệ thất (từ năm 1971 gọi là lớp 6), kỳ thi
có tính chọn lọc khá cao (tỷ số chung toàn quốc vào trường công khoảng 62%); tại
một số trường danh tiếng tỷ lệ trúng tuyển thấp hơn 10%.
Những học
sinh không vào được trường công thì có thể nhập học trường tư thục nhưng phải
trả học phí. Một năm học được chia thành hai “lục cá nguyệt” (hay “học kỳ”).
Kể từ lớp 6, học sinh bắt đầu phải học ngoại ngữ, thường là tiếng Anh hay tiếng
Pháp, môn Công dân giáo dục tiếp tục với lượng 2 giờ mỗi tuần.
Học xong năm
lớp 9 thì thi bằng Trung học đệ nhất cấp. Kỳ thi này thoạt tiên
có hai phần: viết và vấn đáp.
Năm 1959 bỏ
phần vấn đáp rồi đến niên học 1966-67 thì Bộ Quốc gia Giáo dục bãi bỏ hẳn kỳ
thi Trung học đệ nhất cấp.
Sân trường
Marie Curie
Trung học đệ
nhị cấp:
Trung học đệ
nhị cấp là các lớp 10, 11 và 12, trước 1971 gọi là đệ tam, đệ nhị và đệ
nhất; tương đương trung học phổ thông hiện nay. Muốn vào thì phải đậu được bằng
Trung học đệ nhất cấp, tức bằng Trung học cơ sở.
Vào đệ nhị cấp,
học sinh phải chọn học theo một trong bốn ban như dự bị vào đại học. Bốn ban
thường gọi A, B, C, D theo thứ tự là Khoa học thực nghiệm hay còn gọi là ban vạn
vật; ban toán; ban văn chương và ban văn chương cổ ngữ, thường là Hán văn.
Ngoài ra học sinh cũng bắt đầu học thêm một ngoại ngữ thứ hai.
Vào năm lớp
11 thì học sinh phải thi Tú tài I rồi thi Tú tài II năm lớp 12. Thể lệ này đến năm học 1972-1973 thì bỏ, chỉ thi một
đợt tú tài phổ thông. Thí sinh phải thi tất cả các môn học được giảng dạy (trừ
môn Thể dục), đề thi gồm các nội dung đã học, không có giới hạn hoặc bỏ bớt.
Hình thức thi kể từ năm 1974 cũng bỏ lối viết bài luận (essay) mà theo lối
thi trắc nghiệm có tính cách khách quan hơn.
Số liệu
giáo dục bậc trung học[8]
|
||
Niên học
|
Số học
sinh
|
Số lớp học
|
1955
|
51.465
|
890
|
1960
|
160.500[9]
|
|
1963
|
264.866
|
4.831
|
1964
|
291.965[10]
|
|
1970
|
623.000
|
9.069
|
Mỗi năm có
hai đợt thi Tú tài tổ chức vào khoảng tháng 6 và tháng 8.
Tỷ lệ đậu Tú
tài I (15-30%) và Tú tài II (30-45%), tại các trường công lập nhìn chung tỷ lệ
đậu cao hơn trường tư thục do phần lớn học sinh đã được sàng lọc qua kỳ thi vào
lớp 6 rồi. Do tỷ lệ đậu kỳ thi Tú tài khá thấp nên vào được đại học là một chuyện
khó. Thí sinh đậu được xếp thành: Hạng “tối ưu” hay “ưu ban khen” (18/20 điểm trở lên), thí sinh đậu Tú tài II hạng tối ưu thường
hiếm, mỗi năm toàn Việt Nam Cộng Hòa chỉ một vài em đậu hạng này, có năm không
có; hạng “ưu” (16/20 điểm trở lên); “bình”(14/20); “bình thứ” (12/20), và “thứ”
(10/20).
Một số trường trung học chia theo phái tính như ở Sài
Gòn thì có trường
Pétrus Ký, Chu Văn An, Võ Trường Toản, Trường Hồ Ngọc Cẩn (Gia Định) và các trường
Quốc học (Huế), Phan Chu Trinh (Đà Nẵng), Võ Tánh (Nha Trang), Trần Hưng Đạo
(Đà Lạt), Nguyễn Đình Chiểu (Mỹ Tho) dành cho nam sinh; và các trường
Trưng Vương, Gia Long, Lê Văn Duyệt, Trường Nữ Trung học Đồng Khánh (Huế), Trường
Nữ Trung học Bùi Thị Xuân (Đà Lạt), Trường Nữ Trung học Lê Ngọc Hân (Mỹ Tho),
Trường Nữ Trung học Đoàn Thị Điểm (Cần Thơ) chỉ dành cho nữ sinh.
Học sinh trung học lúc bấy giờ phải mặc đồng phục: nữ sinh thì áo dài trắng, quần trắng hay
đen; còn nam sinh thì mặc áo sơ mi trắng, quần
màu xanh dương.
Trung học tổng
hợp:
Chương trình
giáo dục trung học tổng hợp (tiếng Anh: comprehensive high school) là mộtchương
trình giáo dục thực tiễn phát sinh từ quan niệm giáo dục của triết gia John
Dewey,sau này được nhà giáo dục người Mỹ là James B. Connant hệ thống hóa và
đem áp dụng cho các trường trung học Hoa Kỳ Giáo dục trung học tổng hợp chú trọng
đến khía cạnh thực tiễn và hướng nghiệp, đặt nặng vào các môn tư vấn, kinh tế
gia đình, kinh doanh, công-kỹ nghệ, v.v… nhằm trang bị cho học sinh những kiến
thức thực tiễn, giúp họ có thể mưu sinh sau khi rời trường trung học. Ở từng địa
phương, phụ huynh học sinh và các nhà giáo có thể đề nghị những môn học đặc thù
khả dĩ có thể đem ra ứng dụng ở nơi mình sinh sống.
Thời Đệ Nhị
Việt Nam Cộng Hòa chính phủ cho thử nghiệm chương trình trung học tổng hợp, nhập
đệ nhất và đệ nhị cấp lại với nhau. Học trình này được áp dụng đầu tiên tại Trường
Trung học Kiểu mẫu Thủ Đức (khai
giảng niên khóa đầu tiên vào tháng 10 năm 1965) , sau
đó mở rộng cho một số trường như Nguyễn An Ninh (cho nam sinh; 93 đường Trần
Nhân Tông, Quận 10) và Sương Nguyệt Ánh (cho nữ sinh; góc đường Bà Hạt và Vĩnh
Viễn, gần chùa Ấn Quang) ở Sài Gòn, và Chưởng Binh Lễ ở Long Xuyên.
Nhạc sĩ Nguyễn Đức Quang (cầm đàn) trong một buổi sinh hoạt của nhóm Du Ca với các học sinh trường Trung Học Kiểu Mẫu Thủ Đức vào cuối thập niên 1960
Bổ sung ( theo
góp ý của độc giả Nguyễn ):
Ở Huế: Ngày 4-8-1964 trường Đại Học Sư Phạm Huế đã thành lập một trường
Trung-học trực thuộc mang tên Trung Học Kiểu Mẫu Huế (khai giảng niên khóa đầu tiên gồm 8 lớp, 320 học sinh, 24 nhà giáo, 7 nhân viên, với hiệu trưởng Trần Kim Nở).
Trung-học trực thuộc mang tên Trung Học Kiểu Mẫu Huế (khai giảng niên khóa đầu tiên gồm 8 lớp, 320 học sinh, 24 nhà giáo, 7 nhân viên, với hiệu trưởng Trần Kim Nở).
Ở Cần Thơ: Năm 1966, Trung học Kiểu mẫu Cần
Thơ được thành lập thuộc Phân khoa Sư phạm của Viện Đại học Cần Thơ.
Cổng trường
Trung Học Kiểu Mẫu Huế 1964-1975
Trung học kỹ
thuật:
Các trường
trung học kỹ thuật nằm trong hệ thống giáo dục kỹ thuật, kết hợp việc dạy nghề
với giáo dục phổ thông. Các học sinh trúng tuyển vào trung học kỹ thuật thường
được cấp học bổng toàn phần hay bán phần. Mỗi tuần học 42 giờ; hai môn ngoại ngữ
bắt buộc là tiếng Anh và tiếng Pháp.
Các trường
trung học kỹ thuật có mặt hầu hết ở các tỉnh, thành phố; ví dụ, công lập thì có
Trường Trung học Kỹ thuật Cao Thắng (thành lập năm 1956; tiền thân là Trường Cơ
khí Á châu thành lập năm 1906 ở Sài Gòn; nay là Trường Cao Đẳng Kỹ Thuật Cao Thắng),
Trường Trung học Nông Lâm Súc Bảo Lộc, Trường Trung học Kỹ thuật Nguyễn Trường
Tộ; tư thục thì có Trường Trung học Kỹ thuật Don Bosco (do các tu sĩ Dòng
Don Bosco thành lập năm 1956 ở Gia Định; nay là Trường Đại Học Công Nghiệp
TPHCM).
Các trường tư
thục và Quốc Gia Nghĩa Tử
Các trường tư
thục và Bồ đề:
Lễ kỷ niệm
100 năm thành lập của trường Lasan Taberd 17 tháng 2 năm 1974
Ngoài hệ thống
trường công lập của chính phủ là hệ thống trường tư thục. Vào năm 1964 các trường
tư thục giáo dục 28% trẻ em tiểu học và 62% học sinh trung học. Đến niên học
1970-1971 thì trường tư thục đảm nhiệm 17,7% học sinh tiểu học và 77,6% học
sinh trung học.
Con số này
tính đến năm 1975, Việt Nam Cộng Hòa có khoảng 1,2 triệu học sinh ghi
danh học ở hơn 1.000 trường tư thục ở cả hai cấp tiểu học và trung học.
Các trường tư thục nổi tiếng như Lasan Taberd dành cho nam sinh; Couvent des
Oiseaux, Regina Pacis (Nữ vương Hòa bình), và Regina Mundi (Nữ vương Thế giới)
dành cho nữ sinh. Bốn trường này nằm dưới sự điều hành của Giáo Hội Công Giáo.
trường trung học với tổng số học sinh là 58.466.
Ngoài ra còn
có một số trường do chính phủ Pháp tài trợ như Marie Curie, Colette, và
Saint-Exupéry. Kể từ năm 1956, tất cả các trường học tại Việt Nam, bất kể trường
tư hay trường do ngoại quốc tài trợ, đều phải dạy một số giờ nhất định cho các
môn quốc văn và lịch sử Việt Nam.
Chương trình
học chính trong các trường tư vẫn theo chương trình mà Bộ Quốc gia Giáo dục đã
đề ra, dù có thể thêm một số giờ hoặc môn kiến thức thêm.
Sau năm 1975, dưới chính thể Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam tổng cộng
có 1.087 trường tư thục ở miền Nam Việt Nam bị giải thể và trở thành trường
công (hầu hết mang tên mới).
Các trường Quốc Gia Nghĩa Tử:
Saigon 17 March 1971 – Bà Nguyễn Văn Thiệu dự lễ khánh thành Thư viện trường Quốc Gia Nghĩa Tử.
Ngoài hệ thống các trường công lập và tư thục kể trên,
Việt Nam Cộng Hòa còn có hệ thống thứ ba là các trường Quốc gia nghĩa tử. Tuy
đây là trường công lập nhưng không đón nhận học sinh bình thường mà chỉ dành
riêng cho các con em của tử sĩ hoặc thương phế binh của Quân
Lực Việt Nam Cộng Hòa như là một đặc ân của chính phủ giúp đỡ không chỉ phương tiện học hành
mà cả việc nuôi dưỡng.
Hệ thống này bắt đầu hoạt động từ năm 1963 ở Sài Gòn,
sau khai triển thêm ở Đà Nẵng, Cần Thơ, Huế, và Biên Hòa. Tổng cộng có 7 cơ sở
với hơn 10.000 học sinh. Loại trường này do Bộ Cựu Chiến binh quản lý chứ không
phải Bộ Quốc gia Giáo dục, nhưng vẫn dùng giáo trình của Bộ Quốc gia Giáo dục.
Chủ đích của các trường Quốc gia nghĩa tử là giáo dục
phổ thông và hướng nghiệp cho các học sinh chứ không được huấn luyện quân sự.
Vì vậy trường
Quốc gia nghĩa tử khác trường Thiếu sinh quân. Sau năm 1975, các trường quốc gia nghĩa
tử cũng bị giải thể.
Giáo dục đại
học:
Học sinh đậu được Tú tài II thì có thể ghi danh vào học ở một trong các viện Đại Học, trường Đại Học, và học viện trong nước. Tuy nhiên vì số chỗ trong một số trường rất có giới hạn nên học sinh phải dự một kỳ thi tuyển có tính chọn lọc rất cao; các trường này thường là Y, Dược, Nha, Kỹ Thuật, Quốc gia hành chánh và Sư Phạm.
Việc tuyển
chọn dựa trên khả năng của thí sinh, hoàn toàn không xét đến lý lịch gia đình. Sinh viên học trong các cơ sở giáo dục công lập thì không phải
đóng tiền. Chỉ ở một vài trường hay phân khoa đại học thì sinh viên mới đóng lệ
phí thi vào cuối năm học. Ngoài ra, chính phủ còn có những chương trình học bổng
cho sinh viên.
Trong khuôn
viên Học viện Quốc gia Hành chánh
Số liệu
giáo dục bậc đại học:
|
|
Niên học
|
Số sinh
viên
|
1960-61
|
11.708[45]
|
1962
|
16.835[10]
|
1964
|
20.834[10]
|
1974-75
|
166.475[46]
|
Chương trình
học trong các cơ sở giáo dục đại học được chia làm ba cấp. Cấp 1 (học 4 năm): Nếu
theo hướng các ngành nhân văn, khoa học, v.v.. thì lấy bằng Cử nhân (ví dụ: cử
nhân Triết, cử nhân Toán…); nếu theo hướng các ngành chuyên nghiệp thì lấy bằng Tốt nghiệp (ví dụ: bằng
tốt nghiệp Trường Đại học Sư phạm, bằng tốt nghiệp Học viện Quốc gia Hành
chánh…) hay bằng Kỹ sư (ví dụ: kỹ sư Điện, kỹ sư Canh nông…). Cấp 2: học thêm 1-2 năm và
thi lấy bằng Cao học hay Tiến sĩ đệ
tam cấp (tiếng Pháp: docteurde troisième cycle; tương đương Thạc sĩ ngày nay). Cấp 3: học
thêm 2-3 năm và làm luận án thì lấy bằng Tiến sĩ (tương đương với bằng
Ph.D. của Hoa Kỳ).
Riêng ngành
y, vì phải có thời gian thực tập ở bệnh viện nên sau khi học xong chương trình
dự bị y khoa phải học thêm 6 năm hay lâu hơn mới xong chương trình đại học.
Bổ sung của đọc
giả Trần Thạnh (26.12.2013):
VNCH có nhiều
trí thức tốt nghiệp từ Pháp và Hoa Kỳ nên có hai hệ thống bằng cấp khác nhau:
Thạc Sĩ người Việt đầu tiên là ông Phạm Duy Khiêm, bào huynh của nhạc sĩ Phạm Duy.
Ecole Normale Supérieure
Ðánh dấu hoa* là ông Phạm Duy Khiêm. Ðánh dấu X là TT Pháp Georges Pompidou
Theo hệ thống
của Pháp (ngày trước):
- Cử
Nhân (Licencié), Cao học
(DEA), Tiến Sĩ Đệ Tam Cấp (Doctorat de 3è cycle), Tiến Sĩ Quốc Gia
(Doctorat d’État).
Theo hệ thống
của Hoa Kỳ:
- Cử Nhân (Bachelor), Master (trước 1975 chưa có từ ngữ dịch chính
xác bằng cấp này), Tiến Sĩ (PhD).
Khó có thể
so sánh Master và Tiến Sĩ Đệ Tam Cấp vì học trình hai bên khác
nhau. ( Hiện nay trong nước dịch Master là Thạc Sĩ gây hiểu lầm cho
nhiều người ).
Từ “ Thạc
Sĩ ” trước đây được dùng để chỉ những người thi đậu một kỳ thi rất khó của
Pháp (agrégation). Người thi đậu được gọi là Agrégé. Không có từ tiếng Anh
tương đương cho từ này.
Mô hình các
cơ sở giáo dục đại học:
Phần lớn các
cơ sở giáo dục đại học Việt Nam thời Việt Nam Cộng Hòa được tổ chức theo mô hình Viện đại học (theo Việt-Nam
Tự-Điển của Hội khai trí Đức Tiến: Viện = Nơi, sở).
Đây là mô hình tương tự như university của Hoa Kỳ và Tây Âu, cùng với nó là hệ thống đào tạo theo tín
chỉ (tiếng Anh: credit). Mỗi viện đại học bao gồm nhiều Phân khoa đại học (tiếng Anh:
faculty; thường gọi tắt là phân khoa, ví dụ: Phân khoa Y, Phân
khoa Sư phạm, Phân khoa Khoa học, v.v…) hoặc Trường hay Trường Đại học
(tiếng Anh: school hay college; ví dụ: Trường Đại học Nông nghiệp,
Trường Đại học Kỹ thuật, v.v…).
Trong mỗi
Phân khoa Đại học hay Trường Đại học có các ngành (ví dụ: ngành Điện tử, ngành Công chánh, v.v…); về mặt tổ chức, mỗi
ngành tương ứng với một ban (tiếng Anh: department; tương đương với
đơn vị khoa hiện nay).
Trường Đại học Giáo dục: Tiền thân là Trung tâm Huấn luyện Sư phạm Kỹ thuật
Về mặt tổ chức, viện đại học của Việt Nam Cộng Hòa duy trì đường lối phi
chính trị của các đại học Tây Phương. Các khoa trưởng của các trường phân khoa
không do Bộ Quốc gia Giáo dục bổ nhiệm mà do các giáo sư của Hội đồng Khoa bầu
lên.
Trong hai thập niên 1960 và 1970, lúc hội nghị Hòa Bình đang diễn ra ở
Paris, chính phủ Việt Nam Cộng Hòa ráo riết lên kế hoạch tái thiết sau chiến
tranh, với viễn cảnh là hòa bình sẽ lập lại ở Việt Nam, một chính phủ liên hiệp
sẽ được thành lập, người lính từ các bên trở về cần được đào tạo để tái hòa
nhập vào xã hội. Trong khuôn khổ kế hoạch đó, có hai mô hình cơ sở giáo dục đại
học mới và mang tính thực tiễn được hình thành, đó là trường đại học cộng
đồng và viện đại học bách khoa.
Trường đại học cộng đồng là một cơ sở giáo dục đại học sơ cấp và đa ngành;
sinh viên học ở đây để chuyển tiếp lên học ở các viện đại học lớn, hoặc mở mang
kiến thức, hoặc học nghề để ra làm việc.
Các trường đại học cộng đồng được thành lập với sự tham gia đóng góp, xây
dựng, và quản trị của địa phương nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển ở địa phương
trong các mặt văn hóa, xã hội, và kinh tế. Khởi điểm của mô hình giáo dục này
là một nghiên cứu của ông Đỗ Bá Khê tiến hành vào năm 1969 mà các kết quả sau
đó được đưa vào một luận án tiến sĩ trình ở Viện Đại học Southern California
vào năm 1970 với tựa đề The Community College Concept: A Study of its
Relevance to Postwar Reconstruction in Vietnam (Khái niệm trường đại học
cộng đồng:Nghiên cứu sự phù hợp của nó với công cuộc tái thiết hậu chiến ở Việt
Nam).
Cơ sở đầu tiên được hình thành là Trường Đại học Cộng đồng Tiền Giang,
thành lập vào năm 1971 ở Định Tường sau khi mô hình giáo dục mới này được mang
đi trình bày sâu rộng trong dân chúng.
Vào năm 1973, Viện Đại Học Bách Khoa Thủ Đức (tên tiếng Anh: Thủ Đức
Polytechnic University, gọi tắt là Thủ Đức Poly) được thành lập. Đây
là một cơ sở giáo dục đại học đa ngành, đa lĩnh vực, và chú trọng đến các ngành
thực tiễn. Trong thời gian đầu, Viện Đại học Bách khoa Thủ Đức có các trường
đại học chuyên về Nông Nghiệp, Kỹ Thuật, Giáo Dục, Khoa Học và Nhân Văn, Kinh
tế và Quản trị, và Thiết kế đô thị; ngoài ra còn có trường đào tạo sau đại học.
Theo kế hoạch, các cơ sở giáo dục đều được gom chung lại trong một khuôn
viên rộng lớn, tạo một môi trường gợi hứng cho trí thức suy luận, với một cảnh
trí được thiết kế nhằm nâng cao óc sáng tạo; quản lý hành chính tập trung để
tăng hiệu năng và giảm chi phí.
Sau năm 1975, dưới chính thể Cộng Hoà xã hội Chủ Nghĩa Việt Nam, toàn bộ các cơ sở giáo
dục đại học thời Việt Nam Cộng hòa bị đổi tên và bị phân tán theo khuôn mẫu
giáo dục của Liên Xô nên không còn mô hình theo đó các trường hay phân khoa đại
học cấu thành viện đại học, mà mỗi trường trở nên biệt lập.
Giáo dục đại học Việt Nam dưới các chính thể Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa và
Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam theo mô hình phân tán ngành học. Các “trường
đại học bách khoa” được thành lập dưới hai chính thể này ( Trường Đại Học
Bách Khoa Hà Nội, Trường Đại học Bách Khoa TPHCM, và Trường Đại Học Bách Khoa
Đà Nẵng) không giống như mô hình viện đại học bách khoa vì chỉ
tập trung vào các ngành kỹ thuật tương tự, mô hình “trường đại học tổng hợp”
(Trường Đại Học Tổng Hợp Hà Nội, Trường Đại Học Tổng Hợp TPHCM và Trường Đại
Học Tổng Hợp Huế) cũng chỉ tập trung vào các ngành khoa học cơ bản, chứ
không mang tính chất toàn diện.
Đến đầu thập niên 1990, chính phủ Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam mới
thành lập 2 “đại học” cấp quốc gia và 3 “đại học” cấp vùng theo mô hình gần
giống như mô hình viện đại học. Vào tháng 10 năm 2009, một số đại biểu
của Quốc Hội nước CHXHCN Việt Nam đưa ra đề nghị gọi tên các “đại học” cấp quốc
gia và cấp vùng là “viện đại học”.
Các
viện đại học công lập:
Viện Đại Học Sài Gòn: Tiền thân là Viện Đại Học Đông Dương (1906), rồi
Viện Đại Học Quốc Gia Việt Nam (1955)– còn có tên là Viện Đại học Quốc gia Sài
Gòn. Năm 1957, Viện Đại học Quốc Gia Việt Nam đổi tên thành Viện Đại học Sài
Gòn. Đây là viện đại học lớn nhất nước. Trước năm 1964, tiếng Việt lẫn tiếng
Pháp được dùng để giảng dạy ở bậc đại học, nhưng sau đó thì chỉ dùng tiếng Việt
mà thôi theo chính sách ngôn ngữ theo đuổi từ năm 1955. Riêng Trường Đại Học Y
Khoa dùng cả tiếng Anh.
Viện Đại Học Huế: Thành lập vào tháng 3 năm 1957 với 5 phân khoa đại
học: Khoa học, Luật, Sư phạm, Văn khoa, và Y khoa.
Hàng đầu bên trái ông Nguyễn Đăng Trình Bộ trưởng Bộ QG Giáo dục, Viện trưởng Viện Đại học Huế đầu tiên ( tháng 3/1957-7/1957 ). Giữa Tổng thống VNCH Ngô Đình Diệm , bên phải Linh mục Giáo sư Cao Văn Luận Viện trưởng Viện Đại học Huế từ 7/1957-1965.
Viện Đại Học Cần Thơ: Thành lập năm 1966 với 4 phân khoa đại học: Khoa
học, Luật khoa & Khoa học Xã hội, Sư phạm, và Văn khoa.
Viện Đại Học Bách Khoa Thủ Đức: Thành lập năm 1974. Tiền thân là Trung
tâm Quốc gia Kỹ thuật (1957), Học viện Quốc gia Kỹ thuật (1972).
Các
viện đại học tư thục:
Viện Đại Học Đà Lạt: Thành lập ngày 8 tháng 8 năm 1957. Một phần cơ sở
của Viện Đại học Đà Lạt nguyên là một chủng viện của Giáo hội Công Giáo. Viện
đại học này có 4 phân khoa đại học: Chính trị Kinh doanh, Khoa học, Sư phạm,
Thần học và Văn khoa. Theo ước tính, từ năm 1957 đến 1975 viện đại học này đã
giáo dục 26.551 người.
Viện Đại học Đà lạt
Viện Đại Học Vạn Hạnh: Thuộc khối Ấn Quang của Giáo hội phật giáo hội Việt
Nam Thống Nhất; thành lập ngày 17 tháng 10 năm 1964 ở số 222 đường Trương Minh
Giảng (sau 1975 là đường Lê Văn Sỹ), Quận 3, Sài Gòn-Gia Định với 5 phân khoa
đại học: Giáo dục, Phật Học, Khoa Học Xã hội, Khoa học ứng dụng, và Văn học
& Khoa học nhân văn. Vào đầu thập niên 1970, Vạn Hạnh có hơn 3.000 sinh
viên.
Lễ phát bằng Cử Nhân của Viện Đại Học Vạn Hạnh, 1973
Viện Đại Học Phương Nam: Được cấp giấy phép năm 1967 tọa lạc ở số 16 đường
Trần Quốc Toản (sau năm 1975 là đường 3/2 ), quận 10, Sài Gòn. Viện đại học này
thuộc khối Việt Nam Quốc Tự của Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất, Giáo sư Lê
Kim Ngân làm viện trưởng.
Viện Đại học Phương Nam có 3 phân khoa đại học: Kinh tế-Thương mại, Ngoại
ngữ, và Văn khoa. Vào thập niên 1970, viện đại học này có khoảng 750 sinh viên
ghi danh.
Thư viện Đại học Vạn Hạnh Sài Gòn
Viện Đại Học An Giang (Hòa Hảo): Thành lập năm 1970 ở Long Xuyên với 5
phân khoa đại học: Văn khoa, Thương mại-Ngân hàng, Bang giao Quốc tế, Khoa học
Quản trị và Sư phạm. Viện Đại học này trực thuộc Giáo hội Phật Giáo Hòa Hảo.
Viện Đại Học Cao Đài: Thành lập năm 1971 trên đường Ca Bảo Đạo ở Tây Ninh
với 3 phân khoa đại học: Thần học Cao Đài, Nông lâm mục, và Sư phạm. Viện Đại
học này trực thuộc Giáo hội Cao Đài.
Viện Đại Học Minh Đức: Được cấp giấy phép năm 1972, trụ sở ở Sài Gòn với 5
phân khoa đại học: Kỹ thuật Canh nông, Khoa học Kỹ thuật, Kinh tế Thương mại,
Nhân văn Nghệ thuật, và Y Khoa. Viện Đại học này do Giáo hội Công Giáo điều
hành.
Các
học viện và viện nghiên cứu:
Viện Pasteur Nha Trang
Học Viện Quốc Gia Hành Chính: Cơ sở này được thành lập từ thời Quốc
Gia Việt Nam với văn bản ký ngày 29 tháng 5 năm 1950 nhằm đào tạo nhân sự
chuyên môn trong lãnh vực công quyền như thuế vụ và ngoại giao. Trường sở đặt ở
Đà Lạt; năm 1956 thì dời về Sài Gòn đặt ở đường Alexandre de Rhodes; năm 1958
thì chuyển về số 100 đường Trần Quốc Toản (gần góc đường Cao Thắng, sau năm
1975 là đường 3/2), Quận10, Sài Gòn.
Học viện này trực thuộc Phủ Thủ tướng hay Phủ Tổng thống, đến năm 1973 thì
thuộc Phủ Tổng ủy Công vụ. Học viện có chương trình hai năm cao học, chia thành
ba ban cao học, đốc sự, và tham sự.
Học Viện Quốc Gia Nông Nghiệp (1972-1974): tiền thân là Trường
Cao đẳng Nông Lâm Súc (1962-1968), Trung tâm Quốc gia Nông nghiệp
(1968-1972) rồi nhập vào Viện Đại học Bách Khoa Thủ Đức năm 1974.
Ngoài những học viện trên, Việt Nam Cộng hòa còn duy trì một số cơ
quan nghiên cứu khoa học như Viện Pasteur Sài Gòn, Viện Pasteur Đà Lạt, Viện
Pasteur Nha Trang, Viện Hải dương học Nha Trang, Viện Nguyên tử lực Đà
Lạt, Viện Khảo cổ v.v… với những chuyên môn đặc biệt.
Viện Pasteur Sài Gòn thời Pháp thuộc.
Các
trường đại học cộng đồng:
Bắt đầu từ năm 1971 chính phủ mở một số trường đại học cộng đồng (theo mô
hình community college của Hoa Kỳ) như Trường Đại học Cộng đồng Tiền
Giang ở Mỹ Tho, Duyên Hải ở Nha Trang, Quảng Đà ở Đà Nẵng (1974), và Long
Hồ ở Vĩnh Long.
Trường Đại học Cộng đồng Tiền Giang đặt trọng tâm vào nông nghiệp; Trường
Đại học Cộng đồng Duyên Hải hướng về ngư nghiệp. Riêng Trường Long Hồ còn đang
dang dở chưa hoàn tất thì chính thể Việt Nam Cộng hòa bị giải tán.
Ở Sài Gòn thì có Trường Đại học Regina Pacis (khai giảng vào năm 1973) dành
riêng cho nữ sinh do Công Giáo thành lập, và theo triết lý đại học cộng đồng.
Các
trường kỹ thuật và huấn nghệ:
Trường Kỹ Sư Công Nghệ, Trường Hàng Hải thuộc Trung Tâm Quốc Gia Kỹ Thuật
Ngoài những trường đại học còn có hệ thống trường cao đẳng như Trường Bách
khoa Phú Thọ và Trường Nông lâm súc. Một số những trường này sang thập niên
1970 được nâng lên tươngđương với cấp đại học.
Trường quốc gia Nông Lâm mục: Thoạt tiên là Nha Khảo cứu Đông Dương
thành lập năm 1930 ở B’lao, cơ sở này đến năm 1955 thì nâng lên thành Trường
Quốc gia Nông lâm mục với chương trình học bốn năm. Diện tích vườn thực nghiệm
rộng 200 ha chia thành những khu chăn nuôi gia súc,vườn cây công nghiệp, lúa
thóc. Qua từng giai đoạn, trường đổi tên thành Trường Cao đẳng Nông Lâm Súc
(1962-1968), Trung tâm Quốc gia Nông nghiệp (1968-1972), Học viện Quốc gia Nông
nghiệp (1972-1974). Cuối cùng Trường Quốc gia Nông lâm mục được sáp nhập vào
Viện Đại học Bách khoa Thủ Đức ( có trụ sở ở số 45 đường Cường Để, Quận 1, Sài
Gòn). Trường còn có chi nhánh ở Huế, Cần Thơ, và Bình Dương.
Trường Cao đẳng Điện học
Trung Tâm Kỹ Thuật Phú Thọ: Thành lập năm 1957 thời Đệ nhất Cộng Hoà
gồm bốn trường: Trường Cao đẳng Công chánh, Trường Cao đẳng Điện học, Trường
Quốc gia Kỹ sư Công nghệ, và Trường Việt Nam Hàng hải. Năm 1968 lập thêm Trường
Cao đẳng Hóa học. Năm 1972, Trung tâm Quốc gia Kỹ thuật đổi thành Học viện Quốc
gia Kỹ thuật và đến năm 1974 thì nhập với Trường Đại học Nông nghiệp để tạo nên
Viện Đại Học Bách Khoa Thủ Đức
Học Viện Cảnh Sát Quốc Gia: Thành lập năm 1966 để đào tạo nhân viên
giữ an ninh và thi hành luật pháp.
Khóa 2 Cảnh Sát Quốc Gia
Các
trường nghệ thuật:
Trường Quốc gia Âm Nhạc và Kịch Nghệ: Thành lập ngày 12 tháng 4 năm 1956 dưới
thời Đệ Nhất Cộng Hòa. Chương trình học sau được bổ túc để bao gồm các bộ môn
âm nhạc cổ điễn Tây Phương và truyền thống Việt Nam cùng kịch nghệ.
Các giáo sư Trường Quốc gia Âm nhạc và Kịch nghệ đồng tấu: Trần Thanh Tâm
(đờn kìm), Phan Văn Nghị (đờn cò), Trương Văn Đệ (đờn tam), Vũ Văn Hòa (sáo) và
Nguyễn Vĩnh Bảo (đờn tranh).
Trường Quốc Gia Âm Nhạc Huế: Thành lập năm 1962 ở cố đô Huế chủ yếu
dạy âm nhạc cổ truyền Việt Nam,dùng nhà hát Duyệt Thị Đường trong Kinh Thành
Huế làm nơi giảng dạy.
Trường Quốc Gia Trang Trí Mỹ Thuật: Thành lập năm 1971, trên cơ sở nâng cấp
Trường Trung học Trang trí Mỹ thuật Gia Định (tiền thân là Trường Mỹ nghệ Gia
Định, thành lập năm 1940).
Buổi học hình họa tại lớp dự bị của trường Quốc gia Mỹ thuật Sài Gòn đầu
thập niên 60
Trường Quốc Gia Cao Đẳng Mỹ Thuật Sài Gòn: Thành lập sau năm 1954; chuyên đào tạo
về nghệ thuật tạo hình với các chương trình học 3 và 7 năm. Vị giám đốc đầu
tiên là họa sĩ Lê Văn Đệ (1954-1966).
Sinh
viên du học ngoại quốc:
Một số sinh viên bậc đại học được cấp giấy phép đi du học ở nước ngoài. Hai
quốc gia thu nhận nhiều sinh viên Việt Nam vào năm 1964 là Pháp (1.522) và Hoa
Kỳ (399), đa số theo học các ngành khoa học xã hội và kỹ sư.
TÀI
LIỆU VÀ DỤNG CỤ GIÁO KHOA
Trang trong sách Địa Lý lớp Ba
Năm 1958, chính phủ Đệ nhất Cộng hòa cho lập Ban Tu thư thuộc Bộ Quốc gia Giáo dục để soạn, dịch, và in sách
giáo khoa cho hệ thống giáo dục toàn quốc. Tính đến năm 1962, Bộ Quốc gia Giáo dục đã ấn hành xong 39 đầu sách
tiểu học, 83 sách trung học, và 9 sách đại học.[82]
Trang bìa sách Địa Lý lớp Ba
Các giáo chức và họa sĩ làm việc trong Ban Tu thư đã soạn thảo trọn bộ sách
cho bậc tiểu học. Bộ sách này được đánh giá cao cả về nội dung lẫn hình thức.
Có nhiều sách đã được viết, dịch, và phát hành để học sinh và sinh viên có tài
liệu tham khảo.
Phần lớn sách giáo khoa và trang thiết bị dụng cụ học tập do Trung tâm Học
liệu của Bộ Giáo dục sản xuất và cung cấp với sự giúp đỡ của một số cơ quan
nước ngoài. Trung tâm này còn hợp tác với UNESCO để viết và dịch sách dành cho thiếu nhi để giúp các em hiểu biết về các
nền văn hóa khác nhau và tạo sự đoàn kết giữa các nhi đồng trên thế giới. Bộ
Giáo dục cũng dành riêng ngân quỹ để in sách giáo khoa bậc tiểu học cho gần 30 sắc tộc thiểu số khác nhau ở Việt Nam.
Ngoài ra, để có sự thống nhất trong việc sử dụng các danh từ chuyên môn, Bộ Giáo dục cũng đã thiết lập Ủy ban Quốc gia Soạn thảo Danh từ Chuyên môn bao gồm nhiều giáo sư đại học. Ủy ban đã soạn thảo và, thông qua Trung tâm Học liệu, ấn hành những tập đầu tiên trong lĩnh vực văn học và khoa học.[83] Trong những dự án đó Bộ cho in lại nguyên bản Truyện Kiều bằng chữ Nôm.
NHÀ
GIÁO
Đào
tạo giáo chức:
Trường ĐH Sư Phạm thuộc Viện ĐH Huế.
Tòa nhà này thời Pháp là KS Morin Frères
Tòa nhà này thời Pháp là KS Morin Frères
Trường Đại học Sư phạm Sài Gòn thuộc Viện Đại học Sài Gòn (thành lập vào năm 1957) là cơ sở sư phạm đầu tiên,
bắt đầu khai giảng năm 1958.[84] Sau có thêm các trường Cao đẳng Sư phạm ở Ban Mê Thuột, Huế, Vĩnh Long,
Long An, và Quy Nhơn, Nha Trang, Mỹ Tho, Cần Thơ, Long Xuyên.
Vào thời điểm năm 1974, cả nước có 16 cơ sở đào tạo giáo viên tiểu
học với chương trình hai năm còn gọi là chương trình sư phạm cấp tốc.
Chương trình này nhận những ai đã đậu được bằng Trung học Đệ nhất cấp. Hằng năm
chương trình này đào tạo khoảng 2.000 giáo viên tiểu học.
Giáo viên trung học thì phải theo học chương trình của trường đại học sư
phạm (2 hoặc 4 năm). Sinh viên các trường sư phạm được cấp
Keine Kommentare:
Kommentar veröffentlichen