TẠI SAO CỘNG
SẢN GIẾT PHẠM QUỲNH?
Trần
Gia Phụng
Cộng Sản Việt Nam (CSVN) giết
Phạm Quỳnh hai lần: Lần đầu hạ sát, che giấu và phi tang thân xác ông tại
Huế ngày 6-9-1945. Lần thứ hai bóp
méo lịch sử, hủy diệt luôn sự nghiệp và thanh danh của ông. Một câu hỏi được đặt ra là lúc đó Phạm
Quỳnh đã rút lui khỏi chính trường, tại sao CS lại giết Phạm Quỳnh, trong
khi không giết Trần Trọng Kim và toàn bộ nhân viên nội các Trần Trọng Kim,
là những người đang còn hoạt động?
Câu hỏi nầy cần tách ra làm hai phần để dễ tìm hiểu:
Thứ nhứt : Năm 1945, Việt Minh cộng sản (VMCS) cướp
chính quyền tại Hà Nội ngày 19-8, nhưng còn yếu, nên rất sợ Pháp trở lui,
và rất sợ Pháp tái lập chế độ quân chủ để quy tụ lực lượng chống lại VM. Lúc đó, trên toàn quốc đảng CSĐD chỉ có
khoảng 5,000 đảng viên. (Philippe
Devillers, Histoire du Viet-Nam de 1940 à1952, Paris: Éditions du
Seuil, 1952, tr. 182.)
Tại Huế, VM tìm cách cô lập
vua Bảo Đại. Cách tốt nhất là cách
ly nhà vua với những người có khả năng và uy tín thân cận chung quanh nhà vua, trong đó hai nhân vật quan trọng
là Phạm Quỳnh và Ngô Đình Khôi. Do đó, VM ra lệnh bắt Phạm Quỳnh và Ngô
Đình Khôi cùng con là Ngô Đình Huân ngày 23-8-1945. Đồng thời VM sắp đặt những người của VM
như Tạ Quang Bửu, Phạm Khắc Hòe vây quanh rỉ tai, hù dọa nhà vua, phóng đại
về VM. Phạm Khắc Hòe lúc đó đang làm
tổng lý Ngự tiền văn phòng cho vua Bảo Đại.
Ông rất thân thiết và báo cáo với Tôn Quang Phiệt, một đảng viên CS
đang dạy tại trường Thuận Hóa (Huế), mọi sinh hoạt của vua Bảo Đại, triều
đình và nội các Trần Trọng Kim. (Phạm Khắc Hòe, Những ngày cuối cùng của triều đình nhà Nguyễn, Huế: Nxb Thuận
Hóa, 1994, tt. 18, 52, 53)
Theo David G. Marr trong Vietnam 1945, The Quest for Power ,
sau khi Phạm Quỳnh và hai cha con Ngô Đình Khôi bị bắt, người Nhật can
thiệp một cách yếu ớt và không hiệu quả.
Ngày 28-8, sáu người Pháp nhảy dù xuống một địa điểm cách kinh thành
Huế khoảng 20 cây số nhắm mục đích bắt liên lạc với vua Bảo Đại và các cựu
quan Nam triều. Lúc đầu, VM địa
phương tưởng là người của phe Đồng minh, cho họ trú tạm tại một ngôi nhà
thờ, nhưng khi biết rằng đây là những người Pháp có ý định tìm cách liên
lạc với các quan chức Nam triều cũ, VM liền giết bốn người, và cầm tù hai
người đến tháng 6-1946. (David G. Marr, Vietnam
1945, The Quest for Power, University of California Press, tt.
452-453.)
Theo hồi ký của Trần Huy
Liệu, sau khi Nhật đầu hàng, người Pháp nhảy dù xuống Huế, liền hỏi ngay
đến Bảo Đại, Phạm Quỳnh và những người cộng tác với Pháp trước đó. Việt Minh bắt được toán người Pháp nầy và
"xử lý thích đáng" Ngô
Đình Khôi và Phạm Quỳnh, nghĩa là giết các ông tại phía trước lò dầu tr àm,
gần ga xe lửa Hiền Sĩ, làng Cổ Bi, huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên. (Trần
Huy Liệu, Hồi ký [Hà Nội,
8-1960], Phạm Khắc Hòe trích đăng trong sđd.
tr. 102.)
Theo một người Huế, lúc đó có
mặt tại Phong Điền, thì toán ngưòi Pháp có 8 người, nhảy dù xuống làng Phù Ốc,
huyện Phong Điền. Trong số 8 người nầy,
có một người Pháp lai làm thông ngôn, là chồng của cô Lạc ở Cầu Kho, Huế. (Nói
chuyện với ông Phan Văn Dung, tháng 8-1997, tại Houston, Texas.) Nếu theo
quốc lộ 1, từ Huế đi Quảng Trị, đến cột cây số 21, , theo tay mặt đi vào là
ga Hiền Sĩ, làng Cổ Bi.
Trong khi đó vua Bảo Đại cô
đơn tại Huế, lại bị Phạm Khắc Hòe xúi giục và hù dọa, nên nhà vua tuyên
chiếu thoái vị ngày 25-8, và làm lễ thoái vị tại cửa Ngọ Môn ngày 30-8 với
sự hiện diện của đại diện VM là Trần Huy Liệu, Nguyễn Lương Bằng, và Cù Huy
Cận.
Việc người Pháp muốn kiếm
cách liên lạc với cựu hoàng Bảo Đại và Phạm Quỳnh (vì lý do gì không được
rõ) vô tình đã làm cho VM lo ngại, sợ rằng một khi người Pháp trở lui, Pháp
sẽ nhờ Phạm Quỳnh và những người đã từng làm việc với Pháp như Ngô Đình
Khôi giúp Pháp lật ngược thế cờ, đưa cựu hoàng trở lại cầm quyền. Do đó VM vội vàng "mời" cựu
hoàng Bảo Đại rời Huế ngày 4-9, ra Hà Nội làm cố vấn. Hơn nữa, nếu người Pháp có trở lui, cũng
không hợp tác với Trần Trọng Kim, vì ông Kim và nội các của ông bị gán cho
là thân Nhật.
Thứ hai : Để độc tôn quyền lực, VM chủ trương “giết
tiềm lực”, tức tiêu diệt tất cả những ai có khả năng, có tiềm lực, nhưng
không cộng tác với VM, để ngăn chận ngay từ đầu những người về sau có thể
đối kháng với VM. Việt Minh nghĩ
ngay đến Phạm Quỳnh vì những lý do sau đây:
* Phạm Quỳnh muốn xây dựng nền quân chủ
lập hiến tại nước ta, và cho rằng cộng sản là "nạn dịch" gây bất
ổn xã hội, trong khi VM chủ trương độc tài đảng trị. Phạm Quỳnh muốn xây dựng nền quốc học
trong khi VM muốn phổ biến chủ nghĩa cộng sản.
* Ở
trong nước, Phạm Quỳnh tiêu biểu cho giới trí thức làm văn hóa, theo lập
trường quốc gia, bất bạo động, dấn thân hoạt động chính trị. Việt Minh giết Phạm Quỳnh để đe dọa, uy hiếp
và khủng bố tinh thần giới trí thức hoạt động văn hóa trên toàn quốc. Đây là lối mà người xưa gọi là "sát
nhất nhân, vạn nhân cụ " (Giết một người, mười ngàn người sợ.)
* Đối với nước ngoài, Phạm Quỳnh là người
được Pháp ủng hộ. Với đường lối ôn
hòa, ông còn có thể được cả Nhật, Trung Hoa (lúc bấy giờ do Tưởng Giới
Thạch và Quốc Dân Đảng cầm quyền), Anh, Hoa Kỳ chấp nhận hơn là đường lối
cực đoan theo Liên Xô của HCM.
* Hồ Chí Minh (HCM) muốn chụp lấy ngay
thời cơ tạo ra do khoảng trống chính trị sau tối hậu thư Potsdam vào cuối
tháng 7-1945, nên chủ trương tiêu diệt tất cả những người nào có khả năng
tranh quyền với HCM, để cho ở trong cũng như ngoài nước thấy rằng chỉ có
một mình HCM mới xứng đáng lãnh đạo đất nước. Phạm Quỳnh đã từng là thượng thư bộ lại,
đứng đầu triều đình Huế. Đặc biệt
những điều ông viết về tương lai thế giới mà ông đưa ra từ 1930 trong bài
"Ce que sera l' Annam dans cinquante ans" [Nước Nam sẽ ra sao năm
mươi năm sau?] đều đã diễn ra đúng theo ông tiên liệu, như mối đe dọa của
Nhật Bản, nạn dịch cộng sản, xung đột Thái Bình Dương, đại hỏa hoạn ở châu
Âu [thế chiến 2]. Nhờ thế, uy tín
Phạm Quỳnh lên rất cao. Ông có uy
tín và tư thế lớn đối với dư luận trong và ngoài nước, là một trong những
người có thể trở thành đối thủ đáng ngại của HCM, nên HCM quyết tiêu diệt
Phạm Quỳnh để tránh trở ngại về sau.
* Khi mới nổi dậy năm 1945, để lôi cuốn
quần chúng, HCM và Mặt trận VM tuyên truyền rằng HCM là người yêu nước chứ không
phải là đảng viên CS, và HCM ra đi để tìm đường cứu nước, đồng thời HCM
giấu thật kín chuyện xin vào học trường Thuộc Địa Paris mà bị loại, và nhất
là việc HCM xin vào hội Tam Điểm Pháp ngày 14-6-1922. (Jacques Dalloz, “Les
Vietnamiens dans la franc-maçonnerie coloniale”, Revue française
d’Histoire d’Outre-mer, Tam cá nguyệt 3, 1998, Paris: Société Française
d’Histoire d’Outre-mer, tr. 105.)
Khi qua Pháp diễn thuyết năm
1922, Phạm Quỳnh là người biết rõ sinh hoạt của HCM ở Paris. Phạm Quỳnh gặp gỡ Nguyễn Ái Quốc (HCM)
hai lần, ngày 13 và 16-7-1922 tại Paris, tức chỉ khoảng một tháng sau khi
Nguyễn Ái Quốc gia nhập hội Tam Điểm.
Hội Tam Điểm là kẻ thù của đảng CS trên thế giới. Chính vì là người đã lỡ "biết quá
nhiều" về HCM mà Phạm Quỳnh bị
HCM giết hại.
Do những lẽ trên, nếu không
có những người Pháp nhảy dù xuống Huế như tác giả David G. Marr viết hay
Trần Huy Liệu kể, cộng sản cũng vẫn giết Phạm Quỳnh. Phạm Quỳnh và Trần Trọng Kim đều là hai
nhà văn hóa, và chính trị nổi tiếng trên toàn quốc. Trần Trọng Kim viết khảo cứu có tính cách
hoàn toàn chuyên môn, chứ không có chủ trương chính trị lâu dài. Nội các Trần Trọng Kim gồm những chuyên
viên cần thiết cho việc xây dựng cơ sở căn bản trong giai đoạn chuyển tiếp
từ chính quyền Pháp qua chính quyền Việt.
Ngược lại, Phạm Quỳnh trước tác với một ý hướng chính trị rõ ràng:
xây dựng một nền văn hóa dân tộc, bảo tồn quốc tuý, nâng cao trình độ văn
hóa của dân chúng bằng cách phổ biến văn hóa Âu tây, dịch thuật những tư
tưởng dân quyền của Montesquieu, Voltaire, Rousseau.
Phạm Quỳnh tham gia triều
đình Huế cũng nhắm đến một chủ đích rõ ràng: tranh đấu ôn hòa, nhưng cương
quyết yêu cầu Pháp trả lại chủ quyền cho triều đình, và xây dựng một hiến
pháp làm luật lệ căn bản của quốc gia.
Ảnh hưởng văn hóa và chính trị của Phạm Quỳnh khá rộng rãi trên các
tầng lớp quần chúng, nhất là giới trí thức trung lưu, từ lớp trí thức Nho
học đến cả lớp trí thức tân học. Tạp
chí Nam Phong được các lớp người
ưu tú ở các địa phương lúc bấy giờ trên toàn quốc xem như loại sách báo
giáo khoa chỉ đường. Đó là điều mà CS
chẳng những không chấp nhận mà cũng không dung thứ, vì CS muốn nắm độc
quyền lãnh đạo chính trị, độc quyền yêu nước, độc quyền chân lý.
Chú ý thêm ngày Phạm Quỳnh bị
sát hại. Phạm Quỳnh bị bắt ngày 23-8-1945, và bị giết ngày 6-9, nghĩa là ông không bị
nhóm VM địa phương Huế giết liền khi họ bắt ông. Ông bị giam giữ một thời gian, rồi mới bị
giết sau khi nhóm Trần Huy Liệu đến Huế dự lễ thoái vị của vua Bảo
Đại. Khi đã có sự hiện diện của đại
diện trung ương, các cán bộ VM địa phương không dám tự tiện ra tay, mà chắc
chắn phải có ý kiến của trung ương.
Nhóm Trần Huy Liệu cũng không thể tự quyết định được việc nầy. Như vậy chính nhóm Trần Huy Liệu đã đem
lệnh từ Hà Nội vào Huế giết Phạm Quỳnh, và lệnh đó từ đâu, nếu không phải
là từ HCM?
Sau khi Phạm Quỳnh bị giết,
hai người con gái đầu của ông là Phạm Thị Giá và Phạm Thị Thức ra Hà Nội
gặp HCM. Sau đây là lời kể của bà
Thức: "...Tháng 8 năm 1945, Thầy
tôi ra đi!...Sau đó, chị tôi [tên Giá] và tôi nhờ một anh bạn là Vũ Đình Huỳnh ngày ấy là garde-corps
[cận vệ] cho cụ Hồ, giới thiệu đến
thăm cụ và hỏi truyện [tức chuyện Phạm Quỳnh]. Cụ
bảo: "Hồi ấy tôi chưa về...Và trong thời kỳ khởi nghĩa quá vội và có
thể có nhiều sai sót đáng tiếc..." (Hồi ký viết tại Paris ngày
28-10-1992 của bà Phạm Thị Thức, nhân kỷ niệm 100 năm sinh niên Phạm Quỳnh,
tài liệu gia đình do bà Phạm Thị Hoàn thông tin.) Những điều nầy cho thấy
rõ tính ngụy biện của HCM. Lúc Phạm
Quỳnh bị giết ngày 6-9-1945, HCM đã về Hà Nội lập chính phủ
(2-9-1945). Nếu HCM cho rằng giết
Phạm Quỳnh là sai sót của địa phương, HCM giải thích thế nào về chủ trương
của đảng CS bôi lọ lâu dài Phạm Quỳnh sau khi Phạm Quỳnh từ trần? Tác giả Bernard Fall, trong quyển Les deux Viet-Nam, Nxb. Payot,
Paris, 1967, tr. 102 đã viết: "Người
ta biết rằng Hồ là một kịch sĩ có biệt tài đánh lừa kẻ đối thoại."
Giết xong Phạm Quỳnh, CS tính
việc hủy diệt luôn hình ảnh sáng chói nhà văn hóa Phạm Quỳnh. Cộng sản liền quy chụp cho Phạm Quỳnh tội
"phản quốc, làm tay sai cho Pháp". Gần 40 năm sau, trong Từ điển văn học, gồm 2 tập, mỗi tập
trên 600 trang, gồm nhiều người viết, do Uỷ ban Khoa học Xã hội xuất bản
tại Hà Nội năm 1984, vẫn không có mục "Phạm Quỳnh". Khi viết về các nhóm văn hóa, sách nầy
không thể loại nhóm Nam Phong vì
nhóm Nam Phong có khá nhiều tác
giả nổi tiếng. Nói đến nhóm Nam
Phong, trang 121-123, tập 2, tác giả Nguyễn Phương Chi, trong ban biên
tập từ điển, vẫn còn gọi Phạm Quỳnh là "bồi bút, phản động".
Hơn thế nữa, năm 1997, trong Từ
điển nhân vật lịch sử Việt Nam, do nhà xuất bản Văn Hóa, Hà Nội ấn
hành, Nguyễn Q. Thắng và Nguyễn Bá Thế biên tập, mục "Phạm
Quỳnh", trang 758-759, hai tác giả nầy viết: "Hoạn lộ của ông [chỉ Phạm Quỳnh] lên nhanh như diều gặp gió vì gắn bó mật
thiết với các quan thầy thực dân...Ngày 23-8-1945, Phạm bị các lực lượng
yêu nước bắt ở Huế, rồi sau đó bị xử bắn ở l.[làng] Hiền Sĩ, t.[tỉnh] Thừa Thiên, hưởng dương 53 tuổi."
Các tác giả cộng sản thường
đưa ra chiêu bài yêu nước và dân tộc để quy chụp những người không theo
khuynh hướng của mình là phản động, phản quốc, trong khi chính vì HCM khăng
khăng đi theo CS Liên Xô mà Việt Nam không được các nước Đồng Minh thừa
nhận sau năm 1945. Cũng chính vì đảng
CS chủ trương ý thức hệ quốc tế mà gây ra mâu thuẫn quốc cộng, phá hoại
tình đoàn kết dân tộc, là một trong những nguyên nhân chính đưa đến chiến
tranh Việt Nam từ 1946 đến 1975, và hậu quả còn kéo dài mãi cho đến ngày
nay. Sau năm 1954, rồi 1975, chính
đảng CSVN đã nhập cảng và áp dụng một cách máy móc chính sách văn hóa Mác,
Mao và kinh tế chỉ huy rập theo khuôn Liên Xô và Trung Cộng đã làm cho Bắc
Việt rồi cả Việt Nam suy kiệt về mọi mặt trong một thời gian dài.
Nếu nói rằng: Phạm Quỳnh hợp tác với Pháp để mưu cầu
chủ quyền cho Việt Nam, bảo vệ quyền lợi của quốc gia là làm tay sai cho
ngoại bang, còn CSVN theo Nga Hoa, bán đứng quyền lợi đất nước thì không
phải là tay sai ngoại bang? Phạm
Quỳnh hợp tác công khai với Pháp, viết bài trình thuật rõ ràng các hoạt
động của ông là phản quốc, còn VM theo CS Nga Hoa, thì không phản
quốc? Phạm Quỳnh viết bài quảng bá
học thuật Âu tây, đề cao tư tưởng dân quyền của Voltaire, Montesquieu,
Rousseau là không có tinh thần dân tộc, còn CSVN phổ biến tư tưởng Marx,
Lenin, và nhất là chủ nghĩa Stalin thì gọi là gì? Phạm Quỳnh dịch thơ Corneille, Racine là
bồi bút, còn Tố Hữu làm thơ gọi Stalin là ông nội, "thương cha thương mẹ thương chồng /
thương mình thương một thương ông thương mười" thì không bồi
bút? Không ai quên rằng Tố Hữu là
người đã giữ chức chủ tịch Uỷ ban khởi nghĩa của VM tại Huế năm 1945 khi
Phạm Quỳnh bị giết, thăng dần lên làm trưởng ban Tuyên Văn Giáo trung ương,
uỷ viên bộ Chính trị đảng CSVN, phó thủ tướng chính phủ Hà Nội.
Nói cho cùng, nếu Phạm Quỳnh
chỉ là người học trò bình thường của Voltaire, Montesquieu hoặc Rousseau
thì cũng đáng mừng cho dân tộc Việt Nam, vì tư tưởng của các nhà học giả
Pháp nầy là ánh sáng soi đường cho nhân loại toàn thế giới xây dựng nền tự
do dân chủ phân quyền pháp trị. Trong
khi đó HCM là "một người học trò
trung thành của Các Mác và V. I. Lê-nin". (Ban Nghiên cứu Lịch sử
Đảng trung ương, Chủ tịch Hồ Chí
Minh, tiểu sử và sự nghiệp, in lần thứ tư, Nxb. Sự Thật, Hà Nội, 1975,
tr. 160) và nhất là người học trò
xuất sắc của Stalin, thì thực tế lịch sử đã chứng minh rằng đó là thảm họa
độc tài đen tối khốc liệt nhất từ trước đến nay trong lịch sử Việt
Nam.
Dầu sao, việc tuyên truyền
của CS một thời gây nhiễu xạ không ít đến dư luận dân chúng, làm nhiều
người, kể cả vài kẻ tự mệnh danh là trí thức tiến bộ, hiểu sai về Phạm
Quỳnh, và hiểu sai luôn về một số nhân vật chính trị theo khuynh hướng quốc
gia dân tộc. Phạm Quỳnh đã từng nói:
"Về phần tôi, tôi đã chọn con
đường của tôi. Tôi là một người ở
buổi giao thời và tôi sẽ chẳng bao giờ được cảm thông...". (Phạm
Quỳnh, Hành trình nhật ký, Paris:
Nxb. Ý Việt, 1997, trong phần “Dẫn nhập” không đề trang.)
Câu nói nầy làm chúng ta liên
tưởng đến tâm sự của Nguyễn Du qua hai câu thơ chữ Nho:"Bất tri tam bách dư niên hậu,/ Thiên hạ
hà nhân khấp Tố Như ". (Không
biết hơn ba trăm năm sau,/ Trong thiên hạ có ai khóc Tố Như? " Nguyễn Du (Tố Như), tác giả truyện Kiều,
cũng sống trong buổi giao thời giữa hai chế độ nhà Lê và nhà Nguyễn.
Ngày nay, sau những biến động
đảo điên của thời sự, mọi người nên công tâm tìm hiểu Phạm Quỳnh và nhìn
lại sự nghiệp của ông. Trước ngã ba đường vào đầu thế kỷ 20, giữa cựu học,
Tây học, và tân học, Phạm Quỳnh chọn con đường tân học, cải tiến và hoàn
chỉnh văn học quốc ngữ để làm phương tiện xây dựng quốc học, vừa bảo vệ
quốc hồn quốc túy, vừa bồi đắp thêm bằng cách du nhập những tinh hoa văn
hóa nước ngoài. Chủ trương văn hóa
của Phạm Quỳnh xét cho cùng rất quý báu và cần thiết cho đất nước, vì nếu
chỉ mãi mê tranh đấu chính trị và quân sự, mà không xây dựng nền văn hóa
dân tộc dựa trên quốc hồn, quốc học và quốc văn, thì người Việt vẫn bị trì
trệ trong sự nô lệ tinh thần.
Những đóng góp của ông trong
việc phát triển nền văn chương Quốc ngữ thật lớn lao. Những vấn đề văn chương, triết lý tổng
hợp đông tây ông đã viết, những ý kiến do ông đưa ra trong các bài báo, kể
cả những ý kiến ông tranh luận về truyện Kiều, về Nho giáo, vẫn còn có giá
trị. Giấc mơ của Phạm Quỳnh về quốc
học, quốc hồn lại càng cần được cổ xúy làm nền tảng giáo dục tinh thần cho
mọi người Việt Nam ngày nay ở trong cũng như ở ngoài nước. Phạm Quỳnh là nhà văn hóa lớn của Việt
Nam thời hiện đại.
Về chính trị, Phạm Quỳnh viết
nhiều tiểu luận bằng tiếng Việt cũng như bằng tiếng Pháp để tranh đấu thực
hiện lý tưởng chính trị của ông.
Nhiều người thường đồng nghĩa nền quân chủ với phong kiến hoặc thực
dân, nên cho rằng quan niệm quân chủ lập hiến của Phạm Quỳnh là thủ
cựu. Cần phải chú ý là Phạm Quỳnh
chủ trương bất bạo động. Ông chọn
thể chế quân chủ lập hiến với hy vọng thúc đẩy Việt Nam chuyển biến một
cách ôn hòa trong trật tự.
Nhìn ra nước ngoài, hiện
nhiều nước trên thế giới vẫn duy trì nền quân chủ lập hiến, nhưng vẫn là
những nước hết sức dân chủ như Anh Quốc, Nhật Bản, Thuỵ Điển, Bỉ ... Riêng
hai cường quốc ảnh hưởng nhiều đến Việt Nam là Trung Hoa và Ấn Độ đều đã
từng chống ngoại xâm, và chuyển đổi sang thể chế dân chủ theo hai con đường
khác nhau. Trung Hoa tranh đấu bạo
động để lật đổ nhà Thanh năm 1911 và từ đó chìm đắm trong những tranh chấp
đẵm máu; trong khi Ấn Độ tranh đấu bất bạo động, đạt được nền độc lập trong
thể chế quân chủ lập hiến một cách ôn hòa trong Liên Hiệp Anh.
Ở trong nước, xét trên chiều
dài của lịch sử, từ ngày Pháp đặt nền đô hộ năm 1884 đến năm 1945, tuy các
vua nhà Nguyễn bị người Pháp khống chế, nhưng vua vẫn là biểu tượng cao cả
của đất nước, nên các cuộc nổi dậy kháng Pháp từ Bắc vào Nam đều quy hướng
về một mối, đó là triều đình ở kinh đô Huế.
Trái lại từ năm 1945 trở đi, khi VMCS cướp chính quyền, người Việt
Nam bị chia rẽ trầm trọng thành nhiều phe nhóm khác nhau theo những quan
điểm khác nhau. Do đó, trong hoàn cảnh
của ông, Phạm Quỳnh cũng có phần hữu
lý khi ông chủ trương cải cách ôn hòa, và chọn quân chủ lập hiến theo đại
nghị chế thay thế cho nền quân chủ chuyên chế.
Ngày nay, cục diện chính trị
Việt Nam đã thay đổi hẳn, quan niệm quân chủ lập hiến của Phạm Quỳnh không
còn phù hợp, nhưng không thể vì thế mà phủ nhận tinh thần ái quốc, lòng can
đảm và sự tận tình của ông trên con đường phụng sự quê hương. Phạm Quỳnh đã âm thầm tranh đấu bất bạo
động để đòi hỏi chủ quyền cho đất nước.
Ông đã hết lòng hoạt động vì nước và đã hy sinh vì lý tưởng của
mình. Đó là điều thật đáng trân quý
nơi Phạm Quỳnh, nhà trí thức dấn thân hoạt động chính trị.
Một điều đáng ghi nhận cuối
cùng trong cách thức hành xử của Phạm Quỳnh, nhờ theo đuổi một lý tưởng
chính trị trường kỳ và bất bạo động, nên ông luôn luôn cố gắng làm những gì
có lợi cho đất nước và đồng bào, đồng thời tránh không làm bất cứ việc gì
có hại cho quốc gia dân tộc. Phạm
Quỳnh sống lương thiện, không tham ô nhũng lạm, và không hề gây tội ác giết
hại đồng bào.
Thái độ nầy là điều mà rất ít
nhà hoạt động chính trị của mọi khuynh hướng thực hiện được, và là một điểm
son sáng chói phân biệt Phạm Quỳnh với những người ra hợp tác với Pháp để
trục lợi cầu vinh. Đây là điều cần
phải được tách bạch.
Trong việc hợp tác với Pháp,
có hai hạng người. Hạng thứ nhứt là
những kẻ hợp tác để mưu cầu danh lợi riêng tư, lợi dụng quyền thế, hống
hách bóc lột đồng bào. Hạng thứ hai
ra tham chính, làm việc với Pháp, nhưng không dựa vào quyền thế để hiếp đáp
dân chúng, mà dùng quyền thế để cứu giúp đồng bào, và vẫn giữ được khí tiết
riêng của mình như Nguyễn Trường Tộ, Pétrus Trương Vĩnh Ký, và biết bao
nhiêu người vô danh khác... Phải tránh vơ đũa cả nắm, và phải rõ ràng như
thế mới hiểu được tâm trạng và sự can đảm của những nhà trí thức, trong
hoàn cảnh éo le của đất nước, dấn thân hoạt động chính trị, phụng sự dân
tộc, nhất thời đã bị hiểu lầm sau những cơn lốc tranh chấp chính trị kéo
dài trên quê hương yêu dấu, trong đó Phạm Quỳnh là trường hợp điển hình
nhất.
TRẦNGIAPHỤNG
(Toronto, Canada)http://phanchautrinhdanang.org/csgietpq.html
Keine Kommentare:
Kommentar veröffentlichen